Châu Á là thị trường tiêu thụ dầu nhớt xe máy (MCO) lớn nhất thế giới, quan trọng nhất và phát triển nhanh nhất. Bài tóm tắt sau dựa trên kết quả nghiên cứu của hãng phụ gia Infineum đã khảo sát 4 quốc gia: Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam và Thái Lan, cho động cơ xe máy 4 kỳ, được thực hiện gần đây theo bảng câu hỏi khảo sát online.
1.Thị trường chung các nước.
Theo báo cáo, số lượng xe 2 bánh (không kể xe đạp) toàn cầu bán ra đạt 62 triệu chiếc, năm 2018, tăng 1.8% so với năm trước. Một số nước tăng, một số nước giảm, nhưng nhìn chung trong 4 quốc gia được khảo sát, chiếm đến hơn 50% sản lượng xe được bán ra và là trung tâm sản xuất xe máy trên thế giới.
Ấn độ là thị trường xe máy lớn nhất thế giới, với tỷ lệ 80% xe 2 bánh trong hơn 26 triệu xe có động cơ được bán ra trong năm 2018/2019. Tại Indonesia, sau một thời gian suy thoái, năm 2018, sản lượng xe bán ra tăng 8.4%, đạt 6 triệu xe, và xu hướng này được duy trì trong năm 2019.
Việt Nam, thị trường lớn thứ 4 thế giới về xe máy, năm 2018 đạt kỷ lục các năm với 3.38 triệu xe được bán ra. Mặc dù vậy, số liệu 6 tháng đầu năm 2019, lượng xe bán ra giảm 5.3%. Thái lan, thị trường nhỏ nhất trong nhóm khảo sát, số liệu tương đối về nhu cầu và lượng xe bán ra ở mức 1.78 triệu xe, và bức tranh cho năm 2019 không tươi sáng khi nửa đầu năm nay xe bán ra giảm 4%.
2.Thông tin nghiên cứu.
Bảng số liệu thu thập từ 2,000 người lái xe từ các thành phố chính của 4 quốc gia, là những người sở hữu ít nhất 1 xe máy 4 kỳ, lái xe máy hơn một năm và là người quyết định đi thay
“nhớt” – dầu nhớt .
Bảng kết quả trên trái ngược hoàn toàn với số liệu thu thập được của những người lái xe máy (mô tô) ở Hoa kỳ, năm 2018. Với số km/năm ở Hoa kỳ thấp hơn 4 lần so với kết quả trên và 33% có dung tích động cơ trên 1,000 cc cho thấy lái xe máy (mô tô) ở Hoa kỳ là thú vui tiêu khiển.
Hầu hết những xe được khảo sát trong 4 quốc gia trên lăn bánh trên đường liên quan đến phương tiện giao thông hàng ngày, hay liên quan đến một phần “miếng cơm manh áo”, có nghĩa rằng đối tượng khảo sát là thiết yếu và hiệu quả.
3.Phương tiện (xe)
Trong kết quả khảo sát, tại Ấn Độ, tỷ lệ lớn người sử dụng xe máy truyền động ly hợp ngâm dầu (xe số) hơn là xe ga (scooters). Tuy nhiên, ở Việt nam và Indonesia thì xe scooter thông dụng hơn, trong khi tại Thái Lan tỷ lệ là 50/50. Một tỷ lệ nhỏ sử dụng xe tuk-tuk (Thái Lan), xe 3 bánh của Trung quốc (Việt nam) hay xe có dung tích nhỏ hơn 50cc.
Tỷ lệ lớn xe số và xe ga có động cơ nhỏ hơn 150 cc, khoảng 5% là “dân chơi” với xe mô tô dung tích trên/dưới 500 cc. Trong tất cả các hãng chế tạo xe thì Honda được sử dụng 70% theo sau đó là Yamaha và Suzuki.
4.Thời gian thay dầu
Theo kết quả nghiên cứu, hầu hết người lái xe sử dụng đếm km để quyết định thay dầu, thời gian thay dầu trung bình là 3,000 km. Mặt dù người lái xe đến điểm thay dầu chuyên nghiệp (shop, rửa xe, bảo trì,..) nhưng 70% người lái xe quyết định thay dầu nhãn hiệu nào. Tuy nhiên, khi hỏi sâu hơn về dầu nhớt thì 30-40% không biết về tiêu chuẩn kỹ thuật chai dầu họ chỉ định thay. Trong tất cả những người có hiểu biết thì cấp độ nhớt SAE 10W-X là phổ biến nhất cùng với SL – API được dùng nhiều nhất.
Đa số người lái xe cho biết nhãn hiệu họ chọn lựa dựa trên nhận thức thực tế 3 yếu tố: tính năng chung của động cơ; thương hiệu&hiệu suất; giá thành. (Theo Pei Yi Lim, Cố vấn thị trường MCO của Infineum).
Thiểu số còn lại không quan tâm đến thương hiệu thì cho rằng: thương hiệu nào cũng như nhau và có đến 40% không cần chọn lựa thương hiệu nào để thay nhớt cho xe của mình.
Tuy vậy, người sử dụng xe cho biết rằng họ cảm nhận được hiệu năng (chất lượng di chuyển) của xe sau khi thay nhớt. Một số có liệt kê chi tiết về sự khác nhau khi chạy xe giữa các thương hiệu dầu nhớt hoặc loại dầu nhớt được thay.
5.Loại dầu nhớt.
Khi chọn lựa loại dầu nhớt sử dụng, các yếu tố rất khác nhau giữa các nước, “ Formulated for Motorcycle – Pha chế cho xe máy” là yếu tố được quan tâm nhất, đặc biệt ở Thái Lan, Việt Nam, Indonesia. Ở Ấn Độ, người sử dụng hay thích nhãn hiệu đã từng trãi nghiệm.
Yếu tố được quan tâm cao là giá, thời gian bảo hành và cấp chất lượng (có lẽ bảo hành là do shop hay các trung tâm bảo dưỡng? Ở Việt nam nhớt không có bảo hành). Nhưng có đến 40% người sử dụng không đề xuất được cấp chất lượng nhớt theo API để thay hay mức độ ma sát theo JASO.
Một câu hỏi cho người sử dụng: có kinh nghiệm gì về dầu nhớt liên quan đến các vấn đề của động cơ (hư hỏng)? Hầu hết mọi người quan tâm đến hiện tượng “mất nhớt” – bị bay hơi hay cháy, chảy rò rỉ,..) và “nhiễm bẩn”- đất cát, nước, muội than,..Nhưng một số có ghi nhận hiện tượng “trượt ly hợp- trượt côn/số”, “ỳ máy” (khi lên ga máy tăng tốc chậm), chảy nhớt hay ra nhiều khói..v.v.
6.Chất lượng dầu nhớt.
Liên quan đến chất lượng dầu nhớt và khả năng bảo vệ, người được khảo sát thể hiện sự quan tâm đến bảo vệ mài mòn của động cơ là yếu tố đầu tiên của dầu nhớt, sau đó là tiết kiệm nhiên liệu, làm sạch máy và mát máy.
Thế thì khi chọn lựa yếu tố tính năng cùng với yếu tố kinh tế có một số khác biệt nhưng mạnh nhất nổi lên hai yếu tố cốt lõi là : chọn dầu nhớt có thời gian sử dụng lâu hơn và giá thành dầu nhớt thấp hơn.
Để thỏa mãn những ý kiến trái chiều như vậy thì nhà sản xuất dầu nhớt phải biết cân bằng trong sản phẩm với các thành phần phụ gia tối ưu,
Thông qua diễn giải kết quả của nghiên cứu, mỗi nhà sản xuất có thể sử dụng mục tiêu khác nhau và nhận biết được sự quan tâm đến cấp chất lượng, nhãn hiệu hay thói quen cũng như hành vi người sử dụng.
Đối với kết quả này, quan điểm cá nhân của ESKA có những nhận xét như sau:
- Việc sử dụng dầu nhớt xe máy tại Việt nam rất phí phạm: khảo sát cho thấy trung bình số km thay dầu là 3,000 km là rất hợp lý, có lẽ phù hợp với công thức khuyến cáo của hãng phụ gia và các chuyên gia về máy đề xuất. Dầu nhớt ở Việt nam sử dụng nhiều khi chưa đến thời kỳ phải thay nhưng vẫn cứ thay theo đề xuất của thợ sửa/rửa xe. Hay không biết trong 1 tháng đi được bao nhiêu nhưng cứ đến tháng là thay dầu.
- 70% theo khảo sát biết được nhãn hiệu dầu để thay là con số rất cao trong nhận thức về hình ảnh thương hiệu. Có thể đây là khảo sát được thực hiện tại các thành phố chính/lớn. Tại Việt nam, nhìn chung, việc thay nhãn hiệu dầu nào còn phụ thuộc vào người thợ bảo dưỡng/rửa xe, huống hồ chi còn biết phân loại nhớt theo độ nhớt SAE, hay chất lượng API và tính năng sử dụng hợp lý JASO? Việt nam vẫn còn trong quán tính DIFM (Do-it-for-me/Thay giùm tôi).
- 80% Việt nam sử dụng xe ga là con số ấn tượng, cho thấy dân Việt nam rất nhiều tiền (xe ga nhiều tiền hơn xe số), điều này cũng đúng. Nhiều khi, tại các đô thị lớn của Việt nam, xe ga không những là phương tiện di chuyển mà là …trang sức đi kèm với chủ nhơn. Người đẹp và sang thì đi xe ga xịn chớ sao?
- Nhớt cho người Việt thì nên chọn “chạy êm- smoother shift” và “thời gian thay nhớt lâu– nhớt xịn” đặc biệt “ít quan tâm đến giá”. Như vậy đây là thị trường “con bò sữa”
12.11.2019
ESKA SINGAPORE
Theo “Motorcyle oil use in ASIA – Infineum insight, 29 October, 2019”