028 6258 8193 - 028 6258 8195

eska.hainguyen@gmail.com

201 Nguyễn Xí, P. 26, Q. Bình Thạnh, TPHCM

Trang chủ Blog Trang 22

Giá Xăng Dầu Dự Báo Có Thể Tăng Sau Kì Nghỉ Lễ

0
gia xang dau tang, dau nhot nhap khau, dau nhot eskaSingapore, eska

Giá xăng, dầu trên thị trường Singapore tiếp tục tăng trong những ngày vừa qua, dự báo giá xăng, dầu trong nước có thể điều chỉnh tăng trong kỳ điều hành chiều nay  2-5

Sau 2 kỳ điều hành tăng giá liên tiếp (ngày 2-4 và 17-4), giá xăng , dầu dự báo vẫn có thể tiếp tục tăng vào kỳ điều hành chiều nay  2-5.

Theo số liệu của Bộ Công Thương về thị trường xăng, dầu Singapore, xăng RON 92 tại thị trường này được bán với giá 81,42 USD/thùng, tăng 1,39 USD/thùng. Tương tự, xăng RON 95 có giá 83,24 USD/thùng, tăng 1,2 USD/thùng so với ngày 17-4.

Các mặt hàng dầu tại thị trường Singapore cũng tăng. Số liệu cập nhật đến ngày 15-4 cho thấy, dầu hỏa được bán ra với mức 85,07 USD/thùng, tăng so với ngày 17-4. Dầu diesel, dầu mazut đều tăng.

Trước những diễn biến leo thang của giá xăng, dầu trên thế giới như trên, có thể trong kỳ điều hành chiều nay  2-5, giá xăng, dầu trong nước có thể sẽ tăng.

(ESKA tổng hợp)

 

 

 

 

 

 

 

Thêm 1 triệu Tấn dầu gốc nhóm 2 của ExxonMobil tại Châu Âu

0

ExxonMobil công bố hôm 20/2 về việc nhà máy dầu gốc tại Rotterdam –Hà Lan, bắt đầu được vận hành thương mại, đánh dấu là nhà máy sản xuất dầu gốc Nhóm 2 (phân loại theo API) lớn nhất tại Châu Âu.

Nhà máy được xây dựng lại từ nhà máy lọc dầu (nhiên liệu) cũ và dầu gốc sẽ được phân phối đến các kho dự trữ bắt đầu bán từ Quý 1.

Với công suất 1 triệu Tấn/năm, cung cấp lượng lớn dầu gốc Nhóm 2 cho thị trường Châu Âu khi trong khu vực nhu cầu dầu này tăng mạnh mẽ. Sản lượng này gấp 3 lần năng lực sản xuất dầu nhóm 2 của tất cả các nhà máy tại Đông và Tây Âu cộng lại.

Theo hãng nghiên cứu thị trường Argus Media Ltd., năm 2017 tổng sản lượng dầu gốc Nhóm 2 cung cấp cho toàn bộ Châu Âu là 1.7 triệu Tấn bao gồm 1.43 triệu Tấn được nhập khẩu.

Dầu gốc Nhóm 2 được sản xuất ở Châu Âu thấp hơn rất nhiều so với Bắc Mỹ và Châu Á, nhưng nhu cầu tiêu thụ tăng đều đặn qua các năm và tăng mạnh trong năm 2018. Theo Argus, nhu cầu năm nay sẽ gấp đôi năm 2017.

Nhà máy được đầu tư và mở rộng với 1 tỷ USD, công nghệ hydrocracking để sản xuất 2 loại dầu gốc với độ nhớt động học 5 cSt@100oC và 12 cSt@100oC. ExxonMobil cũng đồng thời mở các kho dự trữ tại Hamburg, Đức sẽ hoàn thành mùa hè năm nay, và kho khác tại Valencia, Tây Ban Nha.

Trước đây, Châu Âu rất mạnh trong phân khúc sản xuất dầu công nghiệp do thừa hưởng nền công nghiệp phát triển. Các nhà máy sản xuất dầu gốc tổng hợp và phụ gia  cũng tập trung tại Tây Âu, nên các sản phẩm dầu động cơ tổng hợp hay cao cấp rất được đánh giá cao.

Các sản phẩm dầu động cơ và thông dụng khác tại Châu Âu từ trước đa phần sản xuất từ dầu gốc Nhóm 1 nên không được đánh giá cao, nhất là dầu có xuất xứ từ Đông Âu.

 

ESKA tổng hợp.

Doanh nghiệp gỗ Trung Quốc đang dịch chuyển sang Việt Nam

0
Năm 2019, ngành gỗ đặt mục tiêu xuất khẩu đến 10,5 tỉ USD (2018 là 9,3 tỉ USD).
Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TP.HCM (HAWA) cho biết: Theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2018 có 65 doanh nghiệp (DN) nước ngoài đầu tư chính thức vào ngành gỗ VN; trong số này có 23 DN đến từ Trung Quốc, tương đương 1/3 số DN đầu tư vào ngành này.
Sự dịch chuyển này không chỉ xảy ra với các DN của Trung Quốc, mà còn bao gồm cả các DN nước ngoài đang đầu tư ở Trung Quốc muốn tìm kiếm một địa chỉ sản xuất mới. Do ngành gỗ VN được cho là đang có nhiều lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhờ các hiệp định thương mại tự do. Bên cạnh đó còn nhiều yếu tố khác.
Năm 2019, ngành gỗ đặt mục tiêu xuất khẩu đến 10,5 tỉ USD (2018 là 9,3 tỉ USD). HAWA khuyến cáo: Để đạt mục tiêu trên, các DN cần chú ý không tiếp tay cho các DN Trung Quốc về những hành vi lẩn tránh thuế để tránh bị vạ lây, ảnh hưởng xấu đến hình ảnh toàn ngành.
(ESKA tổng hợp)

 

 

Kết 2018 Và Những Dự Cảm 2019 (Phần 3)

0
KẾT 2018 VÀ NHỮNG DỰ CẢM 2019 (PHẦN 3)

Phần 3: Kinh tế Việt nam năm 2018 dưới góc nhìn ngành dầu nhớt

Năm 2018, một năm thuận lợi cho nền kinh tế Việt nam với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,08%, là mức cao nhất trong vòng 10 năm qua, trước sự bất ổn của kinh tế thế giới.

Chỉ số PMI liên tục tăng vào các tháng cuối năm và cao nhất trong khối ASEAN.

Ngành công nghiệp

Đóng góp chính vào tăng trưởng vẫn là xuất khẩu của khu vực FDI, tuy nhiên đây cũng chính là điểm yếu của nền kinh tế khi phụ thuộc quá lớn vào khu vực này. Đặc biệt, thành tích xuất khẩu của khu vực FDI lại chịu sự chi phối bởi một số doanh nghiệp lớn như Samsung khi chỉ riêng xuất khẩu điện thoại và linh kiện điện thoại của Samsung ước chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm.

Chỉ số toàn ngành công nghiệp IIP tăng 10,2% trong đó đóng góp nhiều vẫn là điện thoại, linh kiện điện tử ngoài ra điểm sáng ở dệt may, máy móc thiết bị, giày dép và thủy sản.

Sự cộng hưởng từ ngành công nghiệp điện thoại và điện tử cũng kéo theo các nhà máy công nghiệp sản xuất vệ tinh tại các trung tân như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc hay Tp.HCM, thúc đẩy chung ngành công nghiệp phụ trợ.

Sự hình thành và ổn định hoạt động của Formosa tại Hà Tĩnh thúc đẩy giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh này dẫn dầu cả nước với tốc độ tăng 89%. Kế đến là Thanh Hóa với tăng trưởng Công nghiệp 34,9% với đóng góp chủ yếu từ Lọc dầu Nghi Sơn. Tuy nhiên, sự rủi ro khi giá trị công nghiệp của tỉnh chỉ tập trung bởi một vài doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự đa dạng và phát triển đồng đều các ngành công nghiệp là mong muốn bền vững để có một tỷ trọng công nghiệp tránh rủi ro trong phát triển kinh tế.

Các trung tâm công nghiệp hình thành từ trước đây như khu vực phía nam (Tp.HCM, Đồng nai, Bình Dương, BRVT..) đều giữ mức tăng trưởng công nghiệp chậm hơn so với các năm trước (dưới 10%), trong khi đó các trung tâm công nghiệp mới nổi như Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Nguyên… giữ mức tăng trưởng công nghiệp cao (trên 15%) do xuất phát điểm giá trị nhỏ của các năm trước…. nhưng có ghi nhận sự cố giắng về thu hút đầu tư của địa phương.

Ngành công nghiệp khai khoáng: dầu mỏ, than, quặng..có tốc độ tăng trưởng âm, đây là điều đáng mừng vì tài nguyên không thể vô hạn để khai thác bù đắp cho chi tiêu của bộ máy chính quyền. Tài nguyên cần được bảo tồn cho thế hệ mai sau.

Vận tải

Chỉ số về năng lực vận tải hàng hóa và hành khách đều thể hiện tăng trên 10%, trong đó đóng góp nhiều là vận tải đường bộ. Đường sắt và đường thủy nội địa tăng ít hơn (dưới 9%) phản ánh sự thiếu đầu tư với trang bị phương tiện hiện tại lạc hậu và hoạt động không hiệu quả. Ngành vận tải biển có sự hồi phục so với các năm trước nhưng các đội tàu không được đóng mới và tải trọng thấp do ảnh hưởng từ suy thoái từ trước. Các đội tàu nước ngoài đang chiếm ưu thế trong năng lực vận tải biển.

Tuy vậy, ngành vận tải đường bộ cũng gặp nhiều khó khăn như giá nhiên liệu tăng cao vào giữa năm, không phải hàng hóa lúc nào cũng đủ để vận chuyển trong khi các đội/đoàn xe được đầu tư dư thừa so với lượng hàng hóa hiện nay. Phương tiện đường bộ bị cạnh tranh trực tiếp từ đường hàng không, nên phương tiện ít được đầu tư mới.

Năm 2018, đánh dấu sự bùng nổ lượng khách quốc tế đến Việt nam du lịch với 15,5 triệu lượt người, ngoài ra, khách du lịch trong nước cũng giữ mức cao. Ngành du lịch phát triển cũng thúc đẩy và đóng góp vào tăng trưởng của ngành vận tải chung.

Ngành công nghiệp chế tạo xe có động cơ tăng 27%, trong đó, năm 2018 Việt nam đưa vào lưu hành 3,4 triệu xe máy (tăng 3,5%) so với năm trước. Số liệu đánh tan sự hoài nghi của các chuyên gia khi cho rằng thị trường xe máy đã bão hòa từ năm 2017. Nhưng đánh giá đó hoàn toàn có cơ sở khi chưa ai thống kê lượng xe máy bị thay thế hay không lưu thông là bao nhiêu. Giống như một quả bóng rơi chạm đất sẽ “nảy lên” nhiều đợt rồi “lịm dầnJ”.

Theo thống kê, Việt nam hiện đang có 50 triệu mô tô, xe máy và 3,2 triệu ô tô đã đăng ký lưu hành.

 CPI – Giá cả…

Tốc độ tăng giá cả tiêu dùng trong nước trong năm 2018 đã cao hơn so với những năm gần đây, tuy nhiên vẫn ở dưới mức mục tiêu 4%. Tỷ giá hối đoái chịu những áp lực mất giá nhất định khi lãi suất đồng đô la Mỹ trên thế giới liên tiếp gia tăng.

Phần lớn thời gian trong năm, tỷ giá tiền đồng/đô la Mỹ neo ở mức sát trần của Ngân hàng Nhà nước. Lạm phát cao hơn, áp lực tỷ giá và quy định hạn chế sử dụng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn đã khiến lãi suất tiền đồng có xu hướng gia tăng đáng kể vào những tháng cuối năm. Tốc độ tăng trưởng tín dụng trong năm nay ước tính dưới 16%, thấp nhất trong nhiều năm.

Giá cả sản phẩm dầu nhớt Việt nam tăng giá bắt đầu từ tháng 3/2018 kéo dài cho đến tháng 10/2018 trước áp lực của giá dầu gốc trong khu vực khi giá dầu thô hồi phục. Mức tăng cuối năm so với đầu năm là trung bình 10%. Chưa kể bắt đầu từ 1.1.2019, phí BVMT (bảo vệ môi trường) tăng thêm 1.100 Đồng Lít/Kg (Tăng thêm 1% cơ cấu giá sản phẩm trung bình).

Giá nguyên liệu, xăng dầu, dầu nhớt…v.v. đều phụ thuộc vào thế giới, tỷ giá và lãi suất ngân hàng…Ở Việt nam, giá cả có sự điều hành của chính quyền nhưng chịu áp lực rất lớn và mong manh…Nên chi phí sản xuất luôn cao (trừ nhân công lao động).

Dự cảm 2019…

“Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong dài hạn sẽ tiếp tục phụ thuộc vào FDI, kết quả gỡ bỏ rào cản thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh và cổ phần hóa DNNN.

Hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế được kỳ vọng sẽ khởi sắc nếu các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP đi vào thực thi và EVFTA chính thức được thông qua. Ngoài ra, cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung Quốc đang đặt Việt Nam trước một cơ hội vô cùng lớn trước xu hướng rời bỏ Trung Quốc của chuỗi cung ứng sản xuất. Tuy nhiên, để cơ hội trở thành hiện thực, đòi hỏi rất nhiều nỗ lực cải thiện môi trường thể chế, kinh doanh và chất lượng lao động trong nước.

Tiến trình bình thường hóa chính sách tiền tệ của Mỹ và Liên minh Châu Âu (EU) được dự kiến tiếp tục diễn ra trong thời gian tới, kéo theo sự mất giá của các đồng tiền và giá cả gia tăng ở hầu hết các nước đang phát triển. Cùng với sự trồi sụt thất thường của giá dầu thế giới, điều này không ít thì nhiều sẽ tạo áp lực lên Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định lãi suất và giá trị tiền đồng.

Trong nhiều năm gần đây, bức tranh ngân sách và nợ công không được cải thiện. Quy mô nợ công lớn và sát ngưỡng cho phép (65% GDP) khiến gánh nặng chi trả nợ lãi ngày càng cao. Nguồn thu ngân sách vẫn chỉ đủ hoặc dư thừa không đáng kể sau khi thực hiện tiêu dùng của nhà nước, không có tiết kiệm (phải vay nợ) để thực hiện đầu tư phát triển.

Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/GDP có giảm đôi chút nhưng lại chủ yếu là nhờ tư nhân hóa nhiều dịch vụ công. Đặc biệt, khối tài sản nhà nước ngày càng giảm thông qua bán vốn DNNN hoặc bán các tài sản nhà nước khác nhưng thâm hụt ngân sách lại không được thu hẹp (vẫn khoảng 4% chưa kể chi trả nợ gốc). Điều này có nghĩa là Việt Nam cũng thiếu “đệm tài khóa” để đối phó với các cú sốc bên ngoài (nếu có) như nhiều quốc gia khác. Môi trường kinh doanh theo đó cũng khó được cải thiện khi doanh nghiệp và người dân luôn phải đối mặt với nỗi lo tăng thuế, phí để bù đắp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ.

Trong khối ASEAN, Việt Nam được đánh giá là ít chịu ảnh hưởng tiêu cực nhất, thậm chí còn có tiềm năng hưởng lợi nhờ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu khi hai cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới đối đầu với nhau.

Giá cả thế giới đang trong xu hướng tăng trở lại cũng là một điểm nhấn khác của kinh tế thế giới năm 2018. Giá dầu tăng cao trong gần suốt cả năm cộng với mất giá tiền tệ khiến giá tiêu dùng tăng mạnh trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Điều này, cùng với việc rút vốn khỏi các nước mới nổi tăng mạnh, đã khiến ngân hàng trung ương nhiều nước phải thắt chặt tiền tệ, thị trường chứng khoán sụt giảm. Xu hướng bảo hộ thương mại và bất ổn chính sách gia tăng.”Theo Phạm Thế Anh – TBKTSG

Dự cảm năm 2019 sau đỉnh cao sẽ là …khó khănJ

ESKA– Tổng hợp

Mùng 2, Tết Kỷ Hợi.

 

 

Năm 2018 và những dự cảm 2019 (Phần 2)

0
KẾT 2018 VÀ NHỮNG DỰ CẢM 2019 (PHẦN 3)

PHẦN 2- CÁC QUY CHUẨN KỸ THUẬT TÁC ĐỘNG LÊN NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU NHỜN

API SN Plus thông qua vào tháng 5/2018

Viện Dầu mỏ Hoa kỳ (API) cơ quan ban hành các tiêu chuẩn về dầu nhớt động cơ được sử dụng tham chiếu nhiều tại các quốc gia trên thế giới, chính thức thông qua tiêu chuẩn API SN Plus. Tiêu chuẩn này được quan tâm bởi nhiều quốc gia đặc biệt tại các nước Châu Á – Thái Bình Dương vốn sử dụng rất nhiều các dòng xe với công suất cao, máy nhỏ có sử dụng turbo và kiểu phun nhiên liệu trực tiếp.

Trong gần thập kỷ qua, với việc cải tiến động cơ, các nhà nghiên cứu phát hiện tồn tại hiện tượng “Cháy trước chu kỳ đánh lửa –tạm dịch” gọi là Low Speed Pre-Ignition (LSPI) trong các động cơ có tải trọng cao, công suất lớn. Hiện tượng này gây nên sự rối loạn kiểm soát các chu kỳ hoạt động làm giảm công suất đồng thời gây nên nhiều vấn đề mài mòn, bồ hóng hay đóng cặn buồng đốt động cơ.

API SN Plus được nâng cấp từ API SN chỉ với thay đổi phụ gia VII (Viscosity Index Improver). Hiện tượng LSPI chỉ liên quan đến phụ gia của dầu nhớt, nên các nhà sản xuất phụ gia phải thử nghiệm để thông qua loại VII phù hợp để cải thiện hiện tượng trên. Các thử nghiệm được thực hiện bởi ACEA Test (Châu Âu) và ASTM LSPI test tại Hoa Kỳ.

 “Các nhà sản xuất dầu nhớt tại Châu Á sẵn sàng thay thế API SN thành API SN Plus vì 2 lý do: Một là yêu cầu của các nhà sản xuất xe hơi –OEMs, hai là chiến dịch marketing cho một dòng sản phẩm cao cấp mới để hớt váng trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt giữa các nhãn hiệu.”

 Trung quốc dự thảo tiêu chuẩn dầu động cơ Diesel.

Nhóm các nhà sản xuất động cơ và năng lượng chính của Trung quốc cùng hợp tác để đưa ra tiêu chuẩn đầu tiên cho dầu nhớt động cơ Diesel gọi là Liên minh phát triển tiêu chuẩn dầu nhớt Trung quốc. Các thành viên bao gồm các Cty xăng dầu nhà nước như CNPC và Sinopec cùng với 5 hãng sản xuất động cơ : Weichai Power, FAW, Dongfeng và Foton Cummins, JAC Motor.

Các hãng này cung cấp các động cơ để thử nghiệm và nghiên cứu để phát triển dầu bôi trơn phù hợp tiêu chí hiệu quả và tiết kiệm nhiên liệu.

Trung quốc đang tìm kiếm sự đối trọng trong các tiêu chuẩn về máy công nghiệp và dầu bôi trơn so với Nhật, Châu Âu hay Hoa kỳ. Hơn thế nửa, Trung quôc cho rằng chi phí thử nghiệm để đánh giá đúng API tại Hoa kỳ lên đến 1.6 Triệu USD là quá đắt cho các hãng pha chế dầu nhớt của Trung quốc. Thông thường phải thử nghiệm đủ 10 thử nghiệm trên động cơ để đánh giá API nhưng tiêu chuẩn của Trung quốc cho phép đánh giá chỉ 5 thử nghiệm.

Trung Quốc cũng hy vọng cấp chứng nhận cho các hãng, công ty trên thế giới với chứng nhận này (trong đó có Việt nam vì thích xài hàng giá rẻ với Certificate/xe tải máy Trung Quốc). Một số ông lớn cũng hào hứng hưởng ứng như SwRI, Afton Chemical hay Total.

Indonesia ban hành Tiêu chuẩn Quốc gia đối với ngành công nghiệp Dầu nhớt

Dầu nhớt được bán tại Indonesia phải tuân theo Tiêu chuẩn quốc gia SNI (Indonesia) bắt đầu từ 11/9/2019 theo Luật được ban ngày của Thủ tướng Indoniean số 25/2018 vào ngày 5/9/2018. Có nghĩa rằng thời gian ân hạn là 1 năm.

Theo số liệu Indonesia hiện nay có 22 nhà máy pha chế dầu nhớt nhưng thị trường tồn tại khoảng 200 nhãn hiệu với lượng tiêu thụ nội địa lên đến 850 ngàn Tấn/năm ( https://insights.tuv.com/blog/indonesia-will-implement-sni-on-lubricants-in-2017)

Một phần do sự giao thương với các Hiệp định tự do thương mại giữa cộng đồng kinh tế chung ASEAN (AEC) và phần nửa là thế giới.

Tiêu chuẩn quốc gia về Dầu nhớt của Indonesia không quy định cụ thể từng chỉ tiêu đánh giá (test). Tiêu chuẩn chỉ đơn thuần về mặt đăng ký hành chánh và đánh giá quy trình cũng như nhãn hiệu (nhận biệt bằng ngôn ngữ Bahasa- ngôn ngữ chính của Indonesian). Quá trình đánh giá mất chi phí lớn cho giấy phép 4 năm/lần. Trong khi đó, người sản xuất, nhập khẩu hay thương nhân phải chịu trách nhiệm đối với chất lượng sản phẩm đã đăng ký của mình.

Việt Nam ban hành Quy chuẩn quốc gia cho dầu nhớt động cơ.

Việt Nam bắt buộc các loại dầu nhờn động cơ đốt trong (2 kỳ, 4 kỳ và hàng hải) phải hợp với quy chuẩn quốc gia được ban hành ngày 15/5/2018 bởi Bộ KHCN-MT, và áp dụng ngày 15/12/2018.

Theo quan điểm về quản lý của Việt Nam, dầu nhớt được liệt kê vào hàng hóa Nhóm 2, hàng hóa cần phải kiểm soát vì NGUY HIỂM, và được nhận biết bằng ký hiệu CR (Critically EndangeRed)

Không nước nào trên thế giới dán nhãn CR cho dầu nhờn động cơ đốt trong như Việt Nam.

Các tiêu chuẩn áp dụng cho Tiêu chuẩn dầu nhờn đốt trong quốc qia được soạn thảo thiếu sự tham vấn từ các Chuyên gia mà được tham vấn từ các Trung tâm đo lường thử nghiệm nên có sự thiếu sót và áp đặt chủ quan, gây tranh cãi giữa cộng đồng sản xuất kinh doanh dầu nhớt và phía quản lý nhà nước.

Một phần nữa là thời gian áp dụng thiếu sự chuẩn bị cho các nhà máy và thương nhân trong việc đánh giá và chuẩn bị nhãn, bao bì.

Cho đến thời điểm hiện tại, Việt nam đã áp dụng Quy chuẩn quốc gia 06/2018-TT-KHCN MT cho dầu nhờn động cơ, nhưng chưa có sự tiếp thu điều chỉnh từ phía chính phủ Việt nam làm tăng chi phí cho doanh nghiệp nhất là các nhà nhập khẩu. Tuy là luật quản lý và thừa nhận thiếu sót từ cơ quan quản lý nhưng “Do nothing” để sửa sai cũng là một phương án. Để hoàn tất việc này doanh nghiệp tốn 3-4% giá trị hàng hóa, và thời gian luân chuyển hàng. 

Tiêu chuẩn ACEA 2018 bị hoãn bởi vì ILSAC chưa hoàn tất thử nghiệm.

Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Châu Âu (ACEA) đã hoãn thông qua tiêu chuẩn ACEA 2018 dầu động cơ cho các thử nghiệm trên động cơ (Sequences test) được thực hiện bởi tổ chức tương đương tại Bắc Mỹ ILSAC (Bao gồm 3 tổ chức thử nghiệm và ban hành tiêu chuẩn dầu động cơ thông dụng : API, ACEA và ILSAC)

Tiêu chuẩn thử nghiệm dầu động cơ trên động cơ ACEA  là tiêu chuẩn chính cho ngành công nghiệp dầu động cơ xe tải nhẹ, ô tô và xe tải nặng và cũng là “xương sống” về tiêu chuẩn phát triển dầu nhớt động cơ cho hầu hết các nhà sản xuất ô tô OEMs. Tất cả những công việc để nâng cấp tiêu chuẩn đã thực hiện xong trong năm 2018, và các tính năng mới cũng được thông qua  và  chờ  ban hành vào cuối năm nay.

Nhưng thử nghiệm ACEA 2018 bao gồm trên nhiều động cơ được thực hiện bởi ILSAC (International Lubricants Standardization and Approval Committee) cho ILSAC GF-6 bị hoãn tại Bắc Mỹ để quyết định mức nào là đạt hay không đạt. Có thể các giá trị giới hạn này sẽ chưa được quy định sớm hơn vào giữa năm 2019.

2/1/2019

ESKA Singapore, tổng hợp

(còn tiếp)

Năm 2018 và những dự cảm 2019

0
KẾT 2018 VÀ NHỮNG DỰ CẢM 2019 (PHẦN 3)

Phần 1: Kinh tế thế giới tác động lên ngành công nghiệp dầu nhờn.

Mặc dù mối quan hệ thương mại căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc khiến nhiều công ty Trung Quốc mắc kẹt với việc tăng thuế bất ngờ đối với dầu nhờn và phụ gia, nhưng nhìn chung, ngành Công nghiệp Dầu nhờn tại KV Châu Á-Thái Bình Dương đã phát triển mạnh, một số nhà máy mới và mở rộng liên tục trong năm. Chủ yếu tại Singapore với hoàn tất mở rộng Nhà máy Dầu gốc Nhóm 2 của ExxonMobil, và Trung Quốc với 2 nhà máy sản xuất dầu gốc Nhóm 2 và 3 của Hóa dầu Hengli và Shanxi Lu’An sản xuất bao gồm cả PAO (PolyalphaOlefin) tại tỉnh Sơn Tây.

Chiến tranh thương mại “nảy lửa”

Quan hệ thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã trở nên tồi tệ vào đầu năm nay , dẫn đến một cuộc chiến thương mại khiến ngành công nghiệp dầu nhờn rơi vào tình trạng hỗn loạn tại Trung Quốc. Các quốc gia áp đặt ba vòng thuế quan – vào tháng 7 , 8 và 9  – đối với hàng trăm loại hàng hóa nhập khẩu giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, trong đó có dầu nhờn và phụ gia sản xuất dầu nhờn.

Do đó, giá tăng đối với một số phụ gia và dầu gốc đặc biệt. Một số công ty Mỹ và Trung Quốc đang chuyển đổi nhà cung cấp cho một số nguyên liệu thô hoặc ít nhất là tìm kiếm nguồn cung cấp từ các địa điểm sản xuất khác trên thế giới.

Hoa Kỳ và Trung Quốc đã nối lại các cuộc đàm phán thương mại vào tháng 11 và đồng ý đình chiến tạm thời vào ngày 2 tháng 12. Cả hai nước sẽ không tăng hoặc thêm thuế mới cho đến ngày 1/3, khi các nhà lãnh đạo của họ cố gắng đạt được một giải pháp lâu dài.

Các nhà máy dầu gốc mới.

Trung Quốc đã hoàn thành một loạt dự án sản xuất dầu gốc mới.

Tập đoàn Shanxi Lu’An thuộc sở hữu nhà nước của nhà nước đã mở một nhà máy ở tỉnh Sơn Tây vào giữa năm 2018 với năng lực sản xuất 300.000 tấn/năm của dầu gốc nhóm 3. Tại cùng khu phức hợp ở thành phố Changzhi, công ty cũng đã mở rộng nhà máy có công suất 3.000 tấn/Polyaphaolefin độ nhớt thấp, tăng thêm 20.000 tấn công suất PAO từ nhà máy trước đây.

Công ty hóa dầu Hengli sau đó đã tuyên bố khởi động một nhà máy lọc dầu ở Đông Bắc Trung Quốc bao gồm một nhà máy dầu gốc có công suất 350.000 tấn/năm của nhóm 3 và 190.000 tấn/năm của nhóm 2.

Việc mở rộng nhà máy liên doanh dầu gốc API Nhóm 2 Hyundai Shell tại Daesan, Hàn Quốc , tăng thêm công suất 250.000 Tấn / năm.

 Chuyển động của các nhà máy Pha chế Dầu nhớt & Phụ gia

Dầu nhớt Petronas công bố kế hoạch bắt đầu sản xuất tại nhà máy dầu nhờn 97.000 tấn/ năm tại Patalgana, Ấn Độ, vào cuối năm nay. Tại Singapore, Afton Chemical Corp đã hoàn thành giai đoạn 2 của nhà máy phụ gia dầu nhờn trên đảo Jurong. Afton sẽ sản xuất phụ gia  phân tán không tro cao cấp  và phụ gia chống mài mòn thế hệ mới cho dầu nhờn  được sử dụng trong xe khách và xe tải nặng. Cũng tại đảo này Công ty U&P hoàn thành nhà máy pha chế dầu nhờn công suất 50,000 Tấn/năm chủ yếu phục vụ xuất khẩu với 2 nhãn hiệu Eska Singapore và Maxpro 1.

Nhiều dự án đã bắt đầu trong năm nay. Sau một năm trì hoãn, CPC Corp, một công ty dầu khí nhà nước Đài Loan, đã bắt đầu xây dựng nhà máy pha chế 30.000 tấn / năm tại miền Nam Việt Nam (nhưng chưa thấy động tĩnh gì???). Vài tháng sau Valvoline tuyên bố kế hoạch xây dựng nhà máy dầu nhờn đầu tiên tại Trung Quốc . Nhà máy với vốn đầu tư lớn nhất của Valvoline  cho đến nay – sẽ có công suất vượt quá 103.000 tấn / năm, và dự kiến ​​sẽ bắt đầu sản xuất vào năm 2020.

Chevron hoàn thành mở rộng nhà máy tại Việt Nam, với dự án 5 triệu USD để nâng gấp đôi công suất, tuy vậy, Chervon không tiết lộ công suất của nhà máy mới. Năm 1999, Chevron tiền thân là Caltex, bắt đầu vận hành nhà máy pha chế tại Hải phòng với công suất ban đầu 13.200 Tấn/năm.

Thị trường Dầu nhớt Công nghiệp Châu Á đứng vững

Nhu cầu về chất bôi trơn công nghiệp cao cấp  ở Châu Á sẽ tiếp tục tăng , vì các quy định và công nghệ thông minh – như robot và trí tuệ nhân tạo – sẽ thay đổi bộ mặt của ngành sản xuất. Các nhà sản xuất trong khu vực sẽ tìm cách tối ưu hóa hoạt động của họ và giảm thiểu phí bảo trì,sản phẩm cho dầu công nghiệp trên thị trường được định hình lại. Dầu nhớt cao cấp với ứng dụng chuyên biệt  có thể giúp đạt được những mục tiêu tương lai.

Cụ thể hơn, thị trường dầu nhớt công nghiệp của Ấn Độ đang tăng trưởng với tốc độ 3% đến 3,5% hàng năm , chủ yếu là do việc xây dựng mở rộng xảy ra trên khắp đất nước  với các dự án cơ sở hạ tầng – khiến nhu cầu tăng vọt.

Giá dầu gốc ở Châu Á

Năm 2018, tại Châu Á, không phải là một năm dễ dàng đối với thị trường dầu gốc do giá dầu thô và nguyên liệu biến động liên tục. Mức cung của dầu gốc tiệm cận với nhu cầu sản xuất dầu nhờn thành phẩm vào đầu năm.

Tháng 4, thị trường bắt đầu có sự xáo trộn giữa nguồn cung do việc luân phiên các nhà máy trong khu vực có kế hoạch bảo dưỡng định kỳ. Ngoài ra, các yếu tố về địa-chính trị tác động đến giá dầu thô khởi nguồn dấu hiệu cho biết nguồn cung có thể thiếu hụt trong ngắn hạn. Giá dầu gốc nhấp nhỏm tăng.

Đầu tháng 6, thị trường dầu gốc căng thẳng vì giá  nguyên liệu  dầu thô và nguồn cung thắt chặt gây áp lực lên giá giao ngay, trong khi nhu cầu yếu vì bắt đầu vào mùa thấp điểm (mùa mưa tại Ấn Độ, Trung Quốc và Đông nam Á) . Giá dầu gốc giao ngay trên thị trường giảm trước áp lực nhu cầu yếu. Giá nguyên liệu dịu đi vào đầu tháng 8, nhưng dầu thô đã bắt đầu tăng giá vào tháng 9, dẫn đến biên lợi nhuận giảm cho các nhà máy sản xuất, gây áp lực tăng giá dầu gốc một lần nữa.

Tuy nhiên, vào đầu tháng 11, với giá dầu thô giảm mạnh, nhu cầu dầu gốc  được dự đoán suy giảm vào cuối năm theo như thường lệ. Nguồn cung dồi dào làm cho giá  dầu lại một lần nữa chịu áp lực giảm vào giữa tháng 11 và đầu tháng 12. Không gì ngạc nhiên khi thị trường kết thúc năm 2018 với mức cung hơi quá mức, nhưng năm nay tình hình trầm trọng hơn do công suất dầu gốc toàn cầu tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của nhu cầu khá thấp vì kinh tế thế giới không như kỳ vọng.

…còn tiếp…

30/12/2018,

ESKA Singapore, tổng hợp.

 

Phần 2: Các quy chuẩn kỹ thuật thế giới tác động lên ngành Công nghiệp Dầu nhờn

Từ 1/1/2019- Thuế bảo vệ môi trường “tăng kịch liệt” được áp dụng

0

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thảo luận và biểu quyết thông qua dự thảo Nghị quyết về biểu thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu.

 

Theo đó, thuế môi trường với xăng sẽ tăng lên kịch khung 4.000 đồng, tăng 1.000 đồng mỗi lít so với hiện nay. Dầu hoả sẽ chịu thuế môi trường 1.000 đồng một lít từ đầu năm sau, tăng 700 đồng so với hiện nay.

Cụ thể, biểu thuế bảo vệ môi trường với một số hàng hoá xăng, dầu. Xăng (trừ ethanol), mức hiện hành là 3.000 đồng/lít, mức tăng từ 1/1/2019 là 4.000 đồng/lít; Dầu diesel mức hiện hành là 1.500 đồng/lít, mức tăng từ 1/1/2019 là 2.000 đồng/lít; Dầu hỏa mức hiện hành là 300 đồng/lít, mức tăng từ 1/1/2019 là 1.000 đồng/lít;

Dầu madut mức hiện hành là 900 đồng/lít, mức tăng từ 1.1.2019 là 2.000 đồng/lít; Dầu nhờn mức hiện hành là 900 đồng/lít, mức tăng từ 1/1/2019 là 2.000 đồng/lít; Mỡ nhờn mức hiện hành là 900 đồng, mức tăng từ 1.1.2019 là 2.000 đồng.

ESKA tổng hợp,

 

 

 

 

 

 

Tiêu chuẩn ACEA 2018 bị hoãn bởi vì ILSAC chưa hoàn tất thử nghiệm.

0

Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Châu Âu (ACEA) đã hoãn thông qua tiêu chuẩn ACEA 2018 dầu động cơ cho các thử nghiệm trên động cơ (Sequences test) được thực hiện bởi tổ chức tương đương tại Bắc Mỹ ILSAC (Bao gồm 3 tổ chức thử nghiệm và ban hành tiêu chuẩn dầu động cơ thông dụng : API, ACEA và ILSAC)

“ Các thử nghiệm trên động cơ năm 2018 sẽ hoãn sang năm 2019, và tôi hy vọng sẽ không quá lâu trước khi các mức quy định của các thử nghiệm được hoàn tất và ban hành”, Giám đốc ACEA Khí thải & Nhiên liệu Paul Greening cho biết.

Tiêu chuẩn thử nghiệm dầu động cơ trên động cơ ACEA  là tiêu chuẩn chính cho ngành công nghiệp dầu động cơ xe tải nhẹ, ô tô và xe tải nặng và cũng là “xương sống” về tiêu chuẩn phát triển dầu nhớt động cơ cho hầu hết các nhà sản xuất ô tô OEMs. Tất cả những công việc để nâng cấp tiêu chuẩn đã thực hiện xong trong năm 2018, và các tính năng mới cũng được thông qua và chờ ban hành vào cuối năm nay.

Nhưng thử nghiệm ACEA 2018 bao gồm trên nhiều động cơ được thực hiện bởi ILSAC (International Lubricants Standardization and Approval Committee) cho ILSAC GF-6 bị hoãn tại Bắc Mỹ để quyết định mức nào là đạt hay không đạt. Có thể các giá trị giới hạn này sẽ chưa được quy định sớm hơn vào giữa năm 2019.

Theo Tim Sullivan, Lube’n’Grease, 21 Dec 2018

ESKA Singapore

CÓ PHẢI DẦU NHỚT ĐỘNG CƠ CAO CẤP SỬ DỤNG TỐT CHO ĐỘNG CƠ CŨ? -PHẦN 2

0
CÓ PHẢI DẦU NHỚT ĐỘNG CƠ CAO CẤP SỬ DỤNG TỐT CHO ĐỘNG CƠ CŨ? -PHẦN 2

Giảm dần giới hạn của Phosphorus

Liên quan đến việc sử dụng dầu nhớt cao cấp cho thế hệ động cơ cũ chủ yếu xoay quanh hàm lượng PHOSPHO, là nguyên tố có trong phụ gia chống mài mòn Zinc Dialkyldithio-Phosphate (ZnDDP). Tiêu chuẩn đầu tiên ILSAC GF-1 (Hội đồng tư vấn và tiêu chuẩn dầu nhớt độc lập của Hoa kỳ, tương tự như API hay ACEA của Châu Âu) cho dầu nhớt xe tải nhẹ, xe hơi giới thiệu năm 1992 giới hạn hàm lượng phospho là 1,200 ppm (phần triệu) hay 0,12% khối lượng, bởi vì một số nghiên cứu chỉ ra rằng chính nguyên tố này là nguyên nhân làm hỏng bộ lọc khí thải. Do đó, hàm lượng phospho tối đa cho phép đối với GF-2 là 1,000 ppm năm 1996, xuống 800 ppm cho GF-4 năm 2004. Giới hạn đó vẫn giữ nguyên đối với GF-5 và GF-6

Chú giải: GF-1 tương đương API SH, GF-2 tương đương API SJ, GF-3/SL, GF-4/SM, GF-5, GF-6/SN/SN plus

Người sử dụng xe cũ lo lắng liệu không biết dầu nhớt hiện nay với mức phospho như trên đồng nghĩa phụ gia chống mài mòn ít đi liệu có đủ để bảo vệ cho động cơ? Đặc biệt là những động cơ vừa đại tu hay được sửa lại, rã máy. Đối với động cơ tải năng, dầu nhớt càng chứa nhiều hơn phụ gia ZnDDP. ZnDDP là phụ gia chống mài mòn và chống gỉ trong động cơ được sử dụng thông dụng trong hơn 10 năm qua. Thậm chí ngày nay tiêu chuẩn ILSAC cho dầu động cơ tải nhẹ và xe hơi giới hạn Phospho KHÔNG ĐƯỢC THẤP HƠN 600 ppm. Tuy nhiên, hàm lượng phospho cũng giảm đối với dầu động cơ tải nặng từ trước tới nay và giữ lại khi API CJ-4 tối đa 1,200 ppm phospho, duy trì đối với CK-4 và FA-4. Đối với tải nặng không có giới hạn tối thiểu của hàm lượng phospho.

Các nhà sản xuất dầu nhớt động cơ tải nặng phải giảm hàm lượng để đạt tiêu chuẩn Europe ACEA E6 (tiêu chuẩn năm 2016 : tối đa 800 ppm P), cùng với cố gắng sản xuất một dòng chung chung sử dụng được cho động cơ tải nhẹ (S) và tải nặng (C).

Hai năm trước, Ford khuyến cáo khách hàng không nên sử dụng API CK-4 vì liên quan đến lo ngại mài mòn. Chỉ mới thời gian gần đây, Ford cho phép sử dụng FA-4 trong một phần nhỏ các thế hệ động cơ tải nhẹ mới nhất, và CK-4 với điều kiện hàm lượng Phospho không thấp hơn 1,000 ppm.

Trên quan điểm kỹ thuật của tác giả, giảm hàm lượng ZnDDP không phải tự động ảnh hưởng đến vấn đề mài mòn động cơ. Những hợp chất hóa học khác có khả năng thay thế chống mài mòn như ZnDDP trong động cơ cũ.

Độ nhớt giảm

Xu hướng sử dụng độ nhớt thấp cũng ảnh hưởng đáng kể. Quan điểm sử dụng độ nhớt càng thấp càng tiết kiệm nhiên liệu, tại Hoa kỳ độ nhớt SAE 0W-16 được sử dụng cho tải nhẹ, tại Nhật bản SAE 0W-8 được giới thiệu trong năm nay. Dầu nhớt cho động cơ tải nặng sử dụng SAE 10W-30 hay thấp hơn.

API FA-4 cho phép sử dụng dầu động cơ có độ nhớt ở nhiệt độ cao (HTHS- High Temp High Shear) thấp, với khái niệm dầu tiết kiệm nhiên liệu. FA-4 là tiêu chuẩn API dầu động cơ tải nặng đầu tiên KHÔNG CHO PHÉP SỬ DỤNG CHO XE CŨ, KHÔNG ĐÚNG ĐỜI, bởi vì độ nhớt của dầu này rất thấp. API CK-4 được đề nghị sử dụng với tính năng ưu việt hơn CJ-4 và đặc biệt sử dụng được cho các động cơ đời cũ vì độ nhớt pha chế phù hợp hay không hạn chế như FA-4. API CK-4 được hầu hết các OEMs khuyến khích sử dụng vì tính tương thích này.

Thế hệ tiếp theo của dầu động cơ xe tải, xe ô tô được chia ra thành 2 tiêu chuẩn, với ILSAC GF-6A có thể sử dụng cho xe cũ vì không hạn chế độ nhớt (có thể pha độ nhớt cao) trong khi đó ILSAC GF-6B KHÔNG ĐƯỢC PHÉP sử dụng cho xe cũ vì độ nhớt quy định chỉ SAE 0W-16 hay thấp hơn.

Kết luận

Ở góc nhìn khác, để kết luận câu hỏi trên thì các nhà kỹ thuật yêu cầu các thử nghiệm trên động cơ, nhưng ngày nay, những thử nghiệm chỉ tiến hành trên các động cơ mới và dầu hiện tại phù hợp với kiểu động cơ này. Cứ mỗi loại động cơ có một loại dầu tham chiếu sử dụng đúng cho động cơ đó, sự phát triển của dầu gốc và phụ gia đã phá bỏ tính tham chiếu (loại dầu gốc, độ nhớt) này nên càng phức tạp hóa trong sử dụng dầu nhớt.

Do vậy, để hiểu loại dầu nhớt có sử dụng được hay không thì cần phải có chuyên gia hiểu về các loại dầu nhớt sử dụng. Việt nam, cũng như nhiều nước trên khu vực Châu á, lượng xe cũ còn lưu thông trên đường chiếm tỷ trọng không nhỏ. Thế thì vẫn phải cứ sử dụng dầu nhớt đúng với tiêu chuẩn được khuyến cáo phù hợp cho động cơ đó. Thị trường vẫn tồn tại dầu nhớt API CD, CF, CF-4 mà API đã coi là obsolete (lạc hậu). Đâu phải cứ động cơ nào cũng đổ API CK-4 hay SN cũng tốt hơn hay tăng số Kms sử dụng lên 20,000 Kms như một số hãng hiện nay giới thiệu cho khách hàng. Quan trọng là xe (động cơ) có còn tốt để sử dụng “nhớt tốt” hay không?

Mùa Noel 2018

Trương Thùy An

Dầu Nhớt Sử Dụng Cho Nhà Máy Công Nghiệp Và Khuynh Hướng Địa Phương Hóa Của Eska Singapore

0
Dầu Nhớt Sử Dụng Cho Nhà Máy Công Nghiệp Và Khuynh Hướng Địa Phương Hóa Của Eska Singapore

Sản lượng dầu nhớt cho ngành công nghiệp hay sử dụng trong nhà máy sản xuất công nghiệp chiếm 21% sản lượng tiêu thụ. Các loại dầu nhớt này thường gắn với các tên tuổi lớn như Castrol/BP, Shell, Total,…vì sự khuyến cáo của máy móc thông thường sản xuất ở các nước có công nghệ phát triển. Ngoài ra, với nhãn hiệu mạnh và sự tin tưởng vào chất lượng, người tiêu dùng công nghiệp  cũng đặt niền tin vào các nhãn hiệu này. Như vậy có cánh cửa nào cho một phân khúc lớn này đối với các hãng dầu nhớt độc lập như eska Singapore?

Thông thường, ở Việt nam dầu nhớt được phân loại theo các phân khúc:
1. MCO (Motorcycle Oil): là dầu nhớt cho động cơ của các loại xe mô tô, gắn máy, thường có dung tích bao bì 0.8L, 1L,.

2. PCMO(Passenger Car Motor Oil): là dầu nhớt cho động cơ,..cho các loại xe tải nhẹ như ô tô thường có dung tích 4L, 5L.

3. DEO(Diesel Engine Oil) là dầu nhớt cho động cơ tải thương mại thông thường là các động cơ nhiên liệu Diesel thường có dung tích 18L, 25L và 200L.

3 phân khúc trên được liệt kê chung là ngành vận tải (transportation oil). Ngoài ra còn có các sản phẩm phụ trợ khác như: dầu hộp số (tay, tự động), dầu cầu, nước làm mát, dầu thắng, mỡ,.. Một yếu tố quan trọng cho phân khúc dầu vận tải là tiêu chuẩn khí thải hiện nay được áp dụng. Các động cơ được gắp các bộ lọc khí thải như EGR (Exhaust Gas Recirculation), SCR (Selective Catalytic Reduction) với các xúc tác rất nhạy cảm với thành phần trong phụ gia dầu nhớt như Lưu huỳnh, Phốt pho (SAP).

4. IO (Industrial Oil): là dầu nhớt sử dụng trong nhà máy công nghiệp và các ngành công nghiệp như: xi măng, thép, nhựa,..phục vụ sản xuất. Các ứng dụng dầu nhớt sử dụng thông dụng như:

Dầu thuỷ lực: được sử dụng rộng rãi trong nhà máy với khối lượng lớn. Tiêu chuẩn hiện nay được các hãng khuyến cáo là HM theo ISO 6743/4, hay HLP theo DIN 51524. Trong một số ứng dụng khắc nghiệt (ở Việt nam thông thường là nhiệt độ cao, cho hệ thống có nhiệt độ khối dầu trên 90oC) thì dầu tiêu chuẩn HV, hay HVLP (có chỉ số độ nhớt rất cao) được áp dụng. Tuyệt đối tránh nhầm lẫn với dầu tuần hoàn (không có phụ gia chống mài mòn), các hãng nội địa hay công bố dầu này như là một loại dầu thuỷ lực.

Một số sản phẩm cũng khá đặc biệt nhưng thông dụng như: dầu bánh răng với tính cực áp EP, mỡ bôi trơn chịu nhiệt, dầu cho dây cáp, xích,..với đặc tính chống rung, chịu tải trọng cao, chống ăn mòn, mài mòn. Dầu máy nén khí cũng là một loại dầu quan trọng trong nhà máy.

Dầu Nhớt Sử Dụng Cho Nhà Máy Công Nghiệp Và Khuynh Hướng Địa Phương Hóa Của Eska Singapore

Ngoài ra các ứng dụng cho gia công đặc biệt như: dầu cắt gọt hay gia công kim loại, cơ khí: dầu nhũ tương, dầu gia công không pha nước, dầu máy công cụ hay dầu chống gỉ bề mặt kim loại. Các đặc tính rất chuyên dụng và yêu cầu có sự tham vấn kỹ thuật từ chính hãng để chọn sản phẩm phù hợp với các công đoạn và máy gia công.

Hình thức phân phối các sản phẩm công nghiệp thông qua các nhà phân phối tại địa phương. Trừ một số hãng có danh tiếng, một số hãng dầu độc lập hay nhập khẩu họ thấy rất khó khăn khi phát triển phân khúc này vì: kiến thức chuyên môn, khả năng tồn kho và phân phối, ..quan trọng nhất là tính chuyên nghiệp khi cạch tranh với các nhãn hiệu hiện tại.

Eska Singapore với nền tảng về kỹ thuật và khả năng hậu cần từ Singapore, đã xây dựng nền tảng về sản phẩm công nghiệp khá đầy đủ. Điều quan trọng là dịch vụ kỹ thuật để phục vụ khách hàng bao gồm: tư vấn, khuyến cáo, phân tích theo dõi chất lượng dầu đang sử dụng và sau khi sử dụng (Oil Condition Monitoring) để tiết kiệm chi phí bảo trì và bảo dưỡng cho khách hàng cũng như

tiết kiệm thời gian dừng máy. Một bước chuyên nghiệp hơn để đưa ra một gói chi phí quản lý dầu nhớt sử dụng trong nhà máy từ đầu vào cho đến sử dụng và thải bỏ theo đúng luật định.

Để đáp ứng được các yêu cầu đó, Eska Singapore đã phát triển sản phẩm cho các ngành công nghiệp, nhà máy công nghiệp và xây dựng một hệ thống phân phối rộng khắp trên cả nước với phương châm “ chúng tôi phục vụ không chỉ là dầu nhớt mà là cả giải pháp bôi trơn.

09.11.2018
ESKA,