Dầu thủy lực máy công trình| Xử lý hỏng hóc hệ thống thuỷ lực.

Một số sai lầm trong việc bảo trì để hạn chế hỏng hóc gây ra cho hệ thống thuỷ lực máy công trình. Kiểm tra những điều dễ dàng trước tiên: dầu nhớt sử dụng cho động cơ nguồn. Cũng như chú ý đến dầu thuỷ lực máy công trình và các vấn đề liên quan.

Tình huống hiện trường.

“ Máy công trình có hệ thống thủy lực phức tạp, gồm hai động cơ dẫn động mười bơm thủy lực. Sáu trong số các máy bơm thuỷ lực là máy bơm dịch chuyển thay đổi theo chu kỳ. Bốn trong số này có điều khiển công suất tự động bằng điện tử. Hiện tượng xảy ra là chu kỳ chậm kết hợp với việc giảm vòng tua động cơ (mất RPM). Chẩn đoán là hệ thống dầu thủy lực máy công trình được điều chỉnh trên đường cong công suất của động cơ. Hay dầu thủy lực máy công trình đòi hỏi nhiều năng lượng hơn động cơ có thể tạo ra. Dẫn đến động cơ giảm và do đó thời gian chu kỳ chậm.

 Lời giải thích khác là các động cơ không tạo ra công suất định mức của chúng. Người thợ máy đảm bảo rằng các động cơ ở trạng thái tốt nhất, kiên quyết rằng đây là vấn đề “thủy lực/dầu thuỷ lực“. Chuyên gia thuyết phục người thợ máy phụ trách thay đổi bộ lọc nhiên liệu.  Cùng các bộ phận làm sạch không khí trên cả hai động cơ. Sự cố đã được khắc phục. Hóa ra động cơ sử dụng dầu nhớt không phù hợp đã gây tắc nghẽn các bộ lọc nhớt động cơ. Nên động cơ không thể đạt đến công suất định mức của chúng. Nhiệm vụ tương đối đơn giản là thay đổi bộ lọc nhiên liệu, lọc nhớt động cơ, và cả lọc khí thải. Vấn đề đầu tiên cần được chú ý trước khi kiểm tra hệ thống thuỷ lực.”

Theo Benda Casey, chuyên gia về thuỷ lực của trang https://www.hydraulicsupermarket.com/index.html

Kết luận.

Theo Eska Singapore, đối với động cơ nguồn cần phải sử dụng dầu nhớt động cơ theo khuyến nghị. Trong đó phù hợp với khuyến nghị của OEMs và lựa chọn dầu nhớt động cơ của nhà sản xuất. Có những loại dầu nhớt động cơ gây bịt kín các lọc khí thải DPF, ERG trên động cơ thế hệ mới. Các động cơ này đạt tiêu chuẩn khí thải Euro 5, liên hệ với Eska để biết thêm chi tiết.

Các sai lầm khi xử lý sự cố hệ thống dầu thuỷ lực máy công trình.

Sai lầm thứ 1 – Thay dầu thuỷ lực máy công trình.

Chỉ có hai điều kiện đòi hỏi phải thay dầu thủy lực. Đó là: sự thoái hoá của dầu gốc hoặc suy thoái phụ gia. Có rất nhiều thông số xác định tốc độ dầu gốc xuống cấp. Cũng như các chất phụ gia hết tác dụng , cho việc thay dầu thủy lực sau nhiều giờ hoạt động. Với giá dầu nhớt cao như hiện nay, sử dụng dầu thuỷ lực kéo dài thời gian là điều bạn muốn làm. Và bể chứa dầu thuỷ lực càng lớn thì sai lầm này càng đắt về mặt kinh tế. Mặt khác, tiếp tục hoạt động với dầu thuỷ lực đã tới hạn, sẽ ảnh hưởng đến tuổi thọ của mọi thành phần khác trong hệ thống thủy lực.

Thay dầu thủy lực máy công trình theo một số giờ hoạt động cố định là một ý tưởng tồi, trừ những hệ thống thủy lực nhỏ nhất. Ô nhiễm bởi các hạt hoặc nước cũng không bắt buộc phải thay dầu. Cả hai chất gây ô nhiễm này thường có thể được loại bỏ bằng cách sử dụng lọc ngoại tuyến. Và cách duy nhất để biết khi nào đạt đến điểm thay dầu là thực hiện phân tích dầu thường xuyên.

Sai lầm thứ 2 – Thay đổi bộ lọc.

Tương tự cho các bộ lọc thủy lực, nếu thay đổi theo giờ hoạt động. Nếu thay sớm – trước khi tất cả khả năng giữ bụi bẩn chưa được sử dụng hết. Bạn đang lãng phí tiền vào việc thay đổi bộ lọc không cần thiết. Nếu thay lọc trễ – sau khi lọc đã bão hoà, sẽ làm gia tăng các hạt trong dầu.  Điều này làm giảm tuổi thọ của thành phần trong hệ thống thủy lực. Giải pháp là thay đổi bộ lọc khi van hồi lưu (bypass) mở ra. Đó là cơ chế hạn chế dòng chảy (giảm áp suất) qua phần tử bộ lọc và cảnh báo khi đạt đến điểm này. Có thể theo dõi sự sụt giảm áp suất bằng cách sử dụng chỉ báo tắc nghẽn, bằng một đồng hồ đo áp suất vi sai chênh lệch trước và sau bộ lọc.

Sai lầm thứ 3 – Máy hoạt động quá nóng.

Không có nhiều chủ hoặc người vận hành sẽ tiếp tục vận hành khi động cơ quá nóng. Tương tự như hệ thống thủy lực quá nóng. Giống như động cơ, cách nhanh nhất để phá hủy các bộ phận thủy lực, vòng đệm, ống mềm và bản thân dầu thuỷ lực là hoạt động ở nhiệt độ cao. Nhưng làm thế nào là quá nóng đối với một hệ thống thủy lực? Nó chủ yếu phụ thuộc vào độ nhớt, và chỉ số độ nhớt (VI- tỷ lệ thay đổi độ nhớt theo nhiệt độ) của dầu. Khi nhiệt độ của dầu tăng lên, độ nhớt của dầu thuỷ lực giảm xuống. Và vì vậy một hệ thống thủy lực đang hoạt động quá nóng. Khi nó đạt đến nhiệt độ mà độ nhớt của dầu giảm xuống dưới mức cần thiết để bôi trơn đầy đủ.

Ví dụ, một máy bơm cánh quạt (vane) yêu cầu độ nhớt tối thiểu cao hơn máy bơm piston. Nếu hệ thống thủy lực có bơm cánh quạt, độ nhớt tối thiểu nên duy trì là 25 cSt (mm2/s). Đối với các loại dầu khoáng có chỉ số độ nhớt (VI) khoảng 100. Nhiệt độ hoạt động tối đa cho phép là 35°C nếu sử dụng dầu VG22 hoặc 65°C cho VG68. Ngoài vấn đề bôi trơn, nhiệt độ hoạt động trên 82°C làm hỏng hầu hết các chất liệu của seals. Ống thuỷ lực cũng vậy và đẩy nhanh quá trình xuống cấp của dầu. Vì những lý do được giải thích ở trên, đừng bao giờ để thiết bị thủy lực hoạt động trên 82°C.  Hoặc nhiệt độ mà độ nhớt giảm xuống 10 cSt, tùy theo mức nào thấp hơn trong hai.

Một hệ thống máy thuỷ lực công trình

Sai lầm thứ 4 – Sử dụng sai dầu thuỷ lực máy công trình.

Dầu là thành phần quan trọng nhất của bất kỳ hệ thống dầu thủy lực máy công trình nào. Dầu thủy lực không chỉ là chất bôi trơn, nó còn truyền năng lượng khắp hệ thống thủy lực. Chính vai trò kép này làm cho độ nhớt trở thành đặc tính quan trọng nhất của dầu. Nó ảnh hưởng đến cả hiệu suất của máy và tuổi thọ.

Nếu sử dụng dầu có độ nhớt quá cao so với khí hậu mà máy phải hoạt động. Dầu sẽ không chảy đúng cách hoặc bôi trơn đầy đủ trong quá trình khởi động ở nhiệt độ thấp. Nếu sử dụng dầu có độ nhớt quá thấp so với khí hậu, nó sẽ không duy trì màng dầu.

Trong phạm vi độ nhớt cực hạn cho phép cần thiết để bôi trơn đầy đủ, có một dải độ nhớt hẹp hơn. Nơi tổn thất năng lượng được giảm thiểu. Nếu độ nhớt của dầu cao hơn mức lý tưởng, ma sát chất lỏng tổn thất nhiều năng lượng hơn. Nếu độ nhớt hoạt động thấp hơn mức lý tưởng, ma sát cơ học và rò rỉ bên trong cũng giảm năng lượng hơn. Vì vậy, sử dụng sai dầu nhớt không chỉ dẫn hỏng hóc của các chi tiết, nó còn làm tăng mức tiêu thụ năng lượng. Phải xác định dải nhiệt độ vận hành cho cấp độ nhớt và VI của dầu thủy lực hiện đang sử dụng. Và sau đó đảm bảo rằng máy luôn hoạt động trong phạm vi đó!

Theo Eska Singapore, ngày 10-12-2023.