028 6258 8193 - 028 6258 8195

eska.hainguyen@gmail.com

201 Nguyễn Xí, P. 26, Q. Bình Thạnh, TPHCM

Trang chủ Blog Trang 20

Giá nguyên liệu dầu nhớt Châu Á trượt nhẹ trong khi thị trường dầu nhớt Việt nam “trầm ê”

0

Châu Á tiếp tục thiếu hụt một số loại dầu gốc, nhưng nguồn cung dường như đang được cải thiện với sự khởi động lại của một số nhà máy và gia tăng công suất hoạt động tại các nhà máy khác. Nhu cầu tiêu thụ dầu nhớt chậm lại ở một số quốc gia cũng góp phần tăng tính có sẵn của nguồn cung và giảm bớt áp lực tăng giá.

Một vài nhà sản xuất ở Đông Nam Á đã cung cấp hàng hóa Nhóm I thông qua đấu thầu, đã thu hút sự quan tâm, nhưng người mua không sẵn sàng trả giá cao như vài tuần trước, vì họ biết rằng áp lực giá đã bắt đầu giảm. Nhà pha chế dầu nhớt có thể tìm thấy các sản phẩm thay thế cho một số loại họ cần, hoặc quyết định cắt giảm tỷ lệ sản xuất thành phẩm vì họ không thể bù đắp lợi nhuận khi dầu gốc tuột dốc.

Dầu gốc BS vẫn là một loại được tìm kiếm nhiều, và chỉ được cung cấp lẻ tẻ bởi các nhà máy ở Nam Á thông qua đấu thầu. Giá thầu đã được nghe ở mức thấp hơn so với các giao dịch trước đó.

Trung Quốc, các nhà máy đã cố gắng mua dầu gốc từ các nhà sản xuất địa phương, từ bỏ nhập khẩu càng nhiều càng tốt vì được coi là giá quá đắt. Thời gian nhập khẩu cũng có phần không chắc chắn do vấn đề vận chuyển đang diễn ra theo hướng kéo dài và thiếu chỗ trên tàu ở một số tuyến nhất định. Các nhà máy sản xuất dầu gốc nội địa cạnh tranh với nhau để đảm bảo thị phần, đặc biệt là trong bối cảnh năng lực sản xuất tăng trong nửa cuối năm. Dầu gốc nhóm III có nguồn gốc từ Trung Đông đang có nhu cầu cao và giá đã tăng lên tại đây.

Ở một thị trường quan trọng khác, Ấn Độ, nhu cầu dầu gốc bị ảnh hưởng do phong tỏa liên quan đến đại dịch kéo theo giảm hoạt động sản xuất công nghiệp và vận chuyển. Tình hình đang được cải thiện, nhưng nhiều nhà sản xuất dầu nhớt  thích sử dụng hết hàng tồn kho hiện có thay vì mua thêm sản phẩm vì họ hy vọng giá sẽ bắt đầu dịu đi nếu hàng hóa dồi dào trong khu vực.

Trong khi đó, nguồn dầu gốc trong nước sẽ gia tăng khi một nhà máy dầu gốc lớn bị đóng cửa do nâng cấp nhà máy lọc dầu đã được nghe nói là  hoạt động trở lại.

Ấn độ thường mua nhiều dầu gốc từ Hoa Kỳ, đặc biệt là vào những thời điểm thị trường Hoa Kỳ bị dư thừa. Tuy nhiên, trong những tuần gần đây – Hoa Kỳ đang trải qua sự thiếu hụt nghiêm trọng các loại dầu gốc độ nhớt cao Nhóm I và II và BS, và có rất ít sản phẩm bổ sung để xuất khẩu.

Nguồn cung  được cải thiện ở Hàn Quốc sau khi khởi động lại một vài nhà máy đã hoàn thành lịch bảo dưỡng. SK được nghe nói đã khởi động lại nhà máy Nhóm III ở Ulsan, nhưng đã bắt đầu bảo dưỡng tại nhà máy Nhóm III ở Cartagena, Tây Ban Nha vốn không có  kế hoạch bảo dưỡng năm 2021, vì một trong hai đã được lên kế hoạch ban đầu cho năm 2020, nhưng đã bị trì hoãn do đại dịch, các nguồn tin nhận xét, do đó sẽ hạn chế khả năng xuất khẩu của công ty.

Tại Nhật Bản, sản lượng dầu gốc cũng đã được cải thiện với việc nối lại hoạt động tại nhà máy lọc dầu Eneos Wakayama, sau khi ngừng hoạt động ngoài kế hoạch do hỏa hoạn vào cuối tháng 3. Nhà máy dầu gốc ở Kainan của công ty vẫn đang thực hiện bảo trì bắt đầu vào giữa tháng 5 và dự kiến sẽ kéo dài 45 ngày.

Tại Đài Loan, Formosa đã lên kế hoạch bảo trì tại nhà máy Nhóm II của mình từ đầu tháng 7 dự kiến kéo dài đến tháng 8. Nhà sản xuất đã cố gắng trữ hàng tồn kho để đáp ứng các các hợp đồng  trong thời gian ngừng hoạt động và dự kiến sẽ không bán giao ngay, nhưng chưa được xác nhận. Trung Quốc thường nhận một phần lớn sản lượng của Formosa và có thể thấy khối lượng giảm trong quá trình đóng cửa. Formosa cũng đã xuất khẩu đều đặn các lô dầu gốc sang Đông Nam Á trong những tuần gần đây.

Giá dầu gốc giao ngay ở châu Á một lần nữa được đan xen trong tuần này. Trong khi một số loại ổn định, đã có áp lực giảm đối với một số loại theo ex-tank Singapore, và giá của Nhóm III tăng lên do nguồn cung ít hơn từ SK, Trung đông và nhu cầu tăng. Các giao dịch và giá công bố được coi là điểm chuẩn cho khu vực.

Giá Ex-tank Singapore ổn định và có phần thấp hơn tuần trước đó. Nhóm I SN150 giữ giá $970/t-$1,000/t, và SN500 giữ giá $1,550-$1,590/t. BS vẫn neo mức $1,880/t-$1,920/t.

Nhóm II 150N thấp hơn $20/t còn $1,010/t-$1,050/t, 500N cũng điều chỉnh giảm  $20/t xuống  $1,460/t-$1,500/t, ex-tank Singapore.

Giá FOB Asia, Nhóm I SN150 giữ mức  $840/t-$880/t, nhưng  SN500 trượt $10/t xuống $1,510/t-$1,550/t. BS không thay đổi $1,820/t-1,860/t.

Nhóm II 150N vẫn giữ  $840/t-$880/t, trong khi  500N còn 600N còn $1,290/t-$1,330/t, FOB Asia.

Nhóm III, giá có tăng nhẹ vì nguồn cung hiếm và nhu cầu tăng cho dầu động cơ theo mùa. Loại 4 cSt tăng $20/t lên  $1,340-$1,380/t và 6 cSt cũng tăng  $20/t lên  $1,350/t-$1,390/t. Loại 8 cSt cũng tăng  $20/t lên  $1,280-1,320/t, FOB Asia.

Thượng nguồn, hợp đồng tương lai dầu thô trượt dốc trong phiên giao dịch sáng ở châu Á vào ngày 10 tháng 6 sau các báo cáo về sự gia tăng đáng kể trong hàng tồn kho sản phẩm của Mỹ. Các giá trị đã được thúc đẩy bởi những kỳ vọng lạc quan về nhu cầu dầu thô toàn cầu khi nhiều nền kinh tế đã mở cửa trở lại và mức độ hoạt động đã được cải thiện. Nhưng có 2 phiên tăng liên tục lên cao nhất trong vòng 2 năm vào ngày 13 và 15/June lên mức $73/thùng đối với dầu Brent giao tháng 8 tại sàn giao dịch kỳ hạn London.

Thị trường dầu nhớt Việt nam rơi vào trạng thái “trầm ê” vì nhu cầu thấp kỷ lục trong vòng 1 năm do dịch Covid-19 bùng lên tại các vùng kinh tế trọng điểm như Bắc Giang, Bắc Ninh và Tp.HCM, Bình DươngCác tỉnh và thành phố áp dụng hình thức phong tỏa và giãn các xã hội đẩy nhu cầu trong sản xuất công nghiệp xuống mức thấp đồng thời nhu cầu đi lại và năng lực vận chuyển hàng hóa, hành khách cũng xuống mức thấp tương ứng.  Sau nhiều đợt tăng giá, các hãng dầu nhớt nổi tiếng đã khựng lại vì lượng hấp thu từ hệ thống đã dư thừa cung cấp ra thị trường. Tuy nhiên cũng có sự khan hiếm hàng từ Castrol do chính sách kiềm chế hàng hóa đối phó với nhu cầu “điên cuồng” của hệ thống phân phối nhập hàng dự trữ. Dự báo đợt tăng giá từ 1/7 của Shell bị “việt vị” vì nhu cầu thấp và nguồn nguyên liệu đã đi vào ổn định.

Thế nhưng giá dầu nhớt đã hình thành lên mức cao mới và dường như được người tiêu thụ chấp nhận trong một vài tháng qua vì tất cả hàng hóa cơ bản đều đã tăng giá. Trong khi sản lượng bán ra từ các hãng đều tăng nhưng vòng quay tại tất cả hệ thống đều thấp chỉ báo sẽ có sự cạnh tranh giá quyết liệt trong nửa cuối năm 2021.

Ngày 15/6

ESKA lược dịch từ Lube Asia và theo quan điểm của ESKA

Báo cáo giá nguyên liệu dầu gốc tháng 6/2021:

0

Giá dầu gốc tại Đông Nam á vẫn thấp hơn các khu vực khác. Thế thì dầu nhớt nhập khẩu ASEAN liệu có rẻ hơn? Chắc chắn!

Thương nhân nguyên liệu cho dầu nhớt hy vọng tình hình khan hiếm sẽ giảm bớt khi nhu cầu ở một số quốc gia đã bắt đầu suy yếu, và nguồn dầu gốc nguyên liệu đáp ứng khi các nhà máy sản xuất đã hoạt động trở lại sau chu kỳ bảo dưỡng gần đây. Những dấu hiệu đầu tiên của tình hình cung và cầu cân bằng bắt đầu xuất hiện khi giá dầu gốc ổn định trong suốt tuần qua.

Sự thách thức khi nguồn cung dầu gốc căng thẳng ở tất cả các khu vực, vì châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và Trung Đông… cũng đã trải qua tình trạng khan hiếm như nhau và khả năng đáp ứng nhu cầu ở một khu vực với sản phẩm từ khu vực khác rất ít. Tuy nhiên, khi nhiều quốc gia nới lỏng các hạn chế liên quan đến đại dịch thì triển vọng nhu cầu nhiên liệu tăng,  có thể sẽ khuyến khích các nhà máy lọc dầu tăng tốc, sản lượng dầu gốc sẽ tăng lên. Tuần này, đánh dấu sự trở lại cuộc sống bình thường của Mỹ và Châu Âu, khi họ gần như đạt miễn dịch cộng đồng với chiến lược tiêm chủng vaccine rộng rãi,…

Đó là điều khác biệt (nhẫn tâm) rõ nhất của chủ nghĩa tư bản: khi họ chỉ biết bảo vệ vào lợi nhuận tạo ra cho một số công ty tư bản sở hữu bản quyền của vaccine, để cả xã hội (người dân) đương nhiên là phải mất tiền để chủng ngừa vaccine và quay về với cuộc sống bình thường…Trong khi đó, vì dân mà tại Việt nam, chính quyền vẫn quay cuồng chống dịch…cả nước chống dịch cho đến kiệt quệ…. Cho đến nay, Việt nam xếp thứ 10/11 quốc gia tại Asean tỷ lệ được chủng ngừa vaccine.

Ở châu Á, cách thức thương mại truyền thống thay đổi kể từ khi bắt đầu đại dịch, ví dụ, thương nhân Trung Quốc, phải cạnh tranh với thương nhân ở Đông Nam Á đối với hàng hóa được cung cấp bởi các nhà sản xuất trong khu vực đó. Dầu gốc Đông Bắc Á (Nhật bản, Hàn quốc) cũng tăng khối lượng vận chuyển đến người mua ở Đông Nam Á. Dầu gốc nguồn gốc Đông Nam Á đã được giữ lại trong khu vực nhiều hơn vì giá cả cạnh tranh hơn so với các khu vực khác, một phần do gần các nhà máy, và cũng vì cần phải dự phòng cho việc ngừng sản xuất ở các nhà máy tại Indonesia, Thái Lan và Singapore. Một lượng không nhiều dầu gốc Đông Nam Á cũng dự kiến sẽ chuyển đến Trung Đông vì ở đó có giá hấp dẫn (giá cao), theo báo cáo.

Ấn Độ đã trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu vào đầu năm, khi nhu cầu dầu nhớt phục hồi do sự dịch chuyển của dân số đã tăng lên sau làn sóng đầu tiên của đại dịch Coronavirus. Các thương nhân Ấn Độ cũng tham gia đấu thầu dầu gốc của các nhà cung cấp Đông Nam Á và tìm kiếm hàng hóa bất cứ nơi nào có sẵn. Dầu gốc của Hàn Quốc đến Ấn Độ cũng tăng lên. Tuy nhiên, với làn sóng Covid mới hoành hành ở nước này, sự quan tâm của Ấn Độ đã giảm, một số khu vực đang bị phong tỏa. Doanh số bán xe đã sụt giảm và nhu cầu nhiên liệu cũng bị ảnh hưởng.

Chiến dịch tiêm chủng ở Ấn Độ đã tiến triển chậm hơn dự kiến, và trong tuần này, bão Tauktae, đã đổ bộ vào bang Gujarat, buộc các trung tâm sơ tán và tiêm chủng lớn phải đóng cửa. Tất cả các sự kiện này đã ảnh hưởng đến nhu cầu dầu gốc và dầu nhớt ở Ấn Độ.

Trung Quốc cũng hạn chế nhập khẩu vì các nhà máy dầu nhớt cố gắng đáp ứng nhu cầu thông qua nguồn cung trong nước. Một số nhà máy dầu gốc của Trung Quốc đã bị đóng cửa hoặc hoạt động với tốc độ giảm đã tăng sản lượng trở lại, mặc dù dầu gốc có độ nhớt cao vẫn còn khan hiếm, với nguồn cung dầu BS khó xác định xuất xứ. Một số đến từ Đài Loan, với khối lượng vận chuyển đến Trung Quốc kể từ đầu quý II đã gia tăng, so với quý trước. Tương tự như vậy, hàng hóa từ Hàn Quốc đã được vận chuyển nhiều đến Trung Quốc trong tháng 5 và 6. Nhà máy pha chế dầu nhớt biết rằng các loại dầu gốc Nhóm I vẫn là loại khan hiếm nhất và khó tìm nguồn nhất, và do đó giá đã tăng vọt kể từ đầu năm. Với ít nhà máy sản xuất Nhóm I hơn so với vài năm trước, và một số nhà máy đã cắt giảm dầu gốc loại này khó có thể thay thế, giá đã tăng đều đặn vừa qua.

Đã có những kỳ vọng rằng phân khúc Nhóm I chỉ thiếu hụt trong ngắn hạn. Một vài nhà máy ở Nhật Bản vẫn chưa trở lại, trong khi đó tại Ấn Độ, một nhà máy, đang trải qua thời gian ngừng hoạt động kéo dài và ExxonMobil Singapore đã ngừng hoạt động kể từ tháng 6 năm ngoái. Enoes Group I ở Wakayama, Nhật Bản, đã bị hỏa hoạn vào ngày 29 tháng 3 và đã bị đóng cửa kể từ đó. Việc sửa chữa tại nhà máy lọc dầu dự kiến sẽ được hoàn thành vào cuối tháng. Một nhà máy khác của Tập đoàn Eneos I ở Mizushima, Nhật Bản, vẫn chưa khởi động lại do bảo dưỡng từ giữa tháng 2 và dự kiến sẽ không được hoàn thành cho đến giữa tháng 6. Nhà máy lọc dầu Eneos thứ 3 ở Kainan lại lên kế hoạch cho bảo dưỡng, bắt đầu vào đầu tháng 5.

Phân khúc Nhóm II cũng cực kỳ thiếu hụt, nhưng việc trở lại sản xuất tại một vài nhà máy của Hàn Quốc và tăng tỷ lệ sản lượng tại các cơ sở khác ở Hàn Quốc đã giúp cải thiện tính thanh khoản trong vài tuần qua. Sắp tới, nhà sản xuất Đài Loan Formosa đã lên kế hoạch ngưng và bảo dưỡng kéo dài một tháng tại nhà máy Nhóm II của mình, bắt đầu từ tháng Bảy. Trong khi một số nhà máy hóa dầu bị ảnh hưởng bởi sự cố mất điện ở Đài Loan trong tuần này, nhà máy Formosa ở Mailiao được cho là phần lớn không bị ảnh hưởng bởi sự cố mất điện. Việc sản xuất thêm dầu nhóm II cũng dự kiến sẽ được gia tăng tại Trung Quốc trong quý 3

Hàng hóa từ Trung Đông xuất khẩu đã giảm nhẹ do vấn đề sản xuất và nhu cầu gia tăng trong khu vực. Các chi phí như hậu cần và vận chuyển cũng đã tăng lên trong những tuần gần đây. Người mua phải đối mặt với những khó khăn trong việc đảm bảo chỗ trên tàu và container rỗng rất khan hiếm do sự gián đoạn chuỗi cung ứng do đại dịch gây ra. Chi phí sản xuất cao hơn và giá dầu gốc cao hơn đã thúc đẩy các nhà sản xuất dầu nhớt thành phẩm tăng giá. Giá dầu gốc giao ngay ở châu Á phần lớn ổn định, với một chút thay đổi đối với dầu gốc có độ nhớt cao. Các giao dịch và giá công bố dưới đây được coi là giá chuẩn cho khu vực.

Giá dầu gốc tại Singapore đã ổn định trong tuần này, ngoại trừ BS. SN150 đang giữ ở mức $ 970 / t- $ 1,000 / t. SN500 cũng không thay đổi ở mức 1.570- 1.610 USD/t. BS tăng 10 USD/t lên 1.880 USD/t-1.920 USD/t, tất cả đều là giá ex-tank Singapore.

Nhóm II 150N không thay đổi ở mức $ 1,050 / t – $ 1,090 / t, và 500N cũng đang giữ ở mức $ 1,480 / t – $ 1,520 / t, ex-tank Singapore. Giá FOB Asia, nhóm I SN150 ổn định ở mức 840 USD/t-880 USD/t, và SN500 ở mức 1.530 USD/t-1.570 USD/t. BS dao động ở mức 1.840 USD/t-1.880 USD/t. Nhóm II 150N đang giữ ở mức 840 đô la / t – $ 880 / t FOB Châu Á, trong khi việc cắt giảm 500N và 600N ổn định ở mức 1.290 đô la / t – $ 1,330 / t

Trong phân khúc Nhóm III, 4 cSt bán ở mức 1.280- 1.320 USD/t và 6 cSt không thay đổi ở mức 1.310 USD/t- 1.350 USD/t. Loại 8 cSt ổn định ở mức $ 1,230-1,270 / t, FOB Asia với nguồn cung sản phẩm dồi dào.

Sự thiếu hụt nguồn cung nguyên liệu lĩnh vực hóa dầu cũng dẫn đến sự gián đoạn nguồn cung các loại hóa chất liên quan. Các thành phần cơ bản cấu thành phụ gia dầu nhớt nhất là các loại thành phần phụ gia động cơ cũng thiết hụt. Sau giai đoạn tăng giá dầu gốc, trên thế giới lại chứng kiến tăng giá các loại phụ gia dầu nhớt,…Vấn đề lại là không chỉ ở giá, mà lại là thiếu hụt nguồn cung từ các Hãng PHỤ GIA nổi tiếng. Tình hình thị trường dầu nhớt Việt nam thiếu hụt các loại dầu động cơ cao cấp phản ảnh một chút khía cạnh thiếu hụt này, nhất là các Hãng dầu nổi tiếng!!!

ESKA SINGAPORE được sản xuất từ hãng Dầu gốc nổi tiếng và hãng Phụ gia nổi tiếng!

Ngày 26/5

Theo Lube Asia, Eska Singapore dịch

ĐI TÌM THƯƠNG HIỆU DẦU NHỚT….

0

Bối cảnh đất chật người đông và giá nguyên liệu tăng cao toàn cầu

Theo Tổng cục Thống kê: CPI bình quân quý 1/2021 tăng 0,29%, mức tăng thấp nhất của quý 1 trong 20 năm qua. Giá xăng dầu trong nước bình quân quý 1 giảm 9,54% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm CPI chung giảm 0,34 điểm phần trăm; giá dầu hỏa giảm 14,5% so với cùng kỳ năm 2020. Thế nhưng…

Từ đầu năm đến nay, hàng loạt sản phẩm, nguyên liệu đầu vào đến nhiều tài sản đều lần lượt tăng giá. Chẳng hạn sắt thép, xi măng đã tăng từ 35 – 40%, bắp, đậu, cám gạo tăng mạnh từ 20 – 70%; giá xăng hiện nay cũng vượt 19.000 đồng/lít, tăng gần 14% so với cuối năm 2020 và tăng hơn 60% so với cùng kỳ năm trước. Đáng lưu ý, gas bán lẻ trong quý 1 tăng 7,58% do biến động giá gas thế giới tăng, đẩy giá tiêu dùng tăng.

PGS-TS Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng – Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), nhận định nguy cơ lạm phát là rất lớn cho nhiều nền kinh tế và cả Việt Nam. Nguy cơ này xuất phát từ giá nguyên vật liệu như xăng dầu, sắt thép đã tăng nhanh từ thế giới đến trong nước ở mức trung bình trên 20 – 30%. Nhu cầu sản xuất từ sự phục hồi kinh tế ở các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc đang tăng sẽ tiếp tục khiến giá hàng hóa khó giảm trở lại và vẫn duy trì ở mức cao như hiện nay.

Thứ hai là do chính sách tiền tệ nới lỏng được nhiều nước đồng loạt áp dụng và duy trì thời gian dài vừa qua để hỗ trợ nền kinh tế khi đại dịch Covid-19 xảy ra. Cung tiền đưa vào nền kinh tế quá nhiều khiến giá hàng loạt tài sản tăng mạnh như chứng khoán, bất động sản. Thậm chí ở Việt Nam, cung tiền trước khi đại dịch xảy ra cũng luôn cao với tăng trưởng tín dụng hằng năm ở mức 18 – 19% và chỉ hạ thấp khi nhu cầu vốn của doanh nghiệp chậm lại trong năm 2020 với mức tăng trên 12%.

Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế nói chung ở mức thấp so với giai đoạn trước đây cho thấy lượng hàng hóa dịch vụ sản xuất không theo kịp lượng cung tiền. Điều đó cũng đẩy giá hàng hóa đi lên. Thứ ba, quá trình hồi phục kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong giai đoạn sắp tới sẽ kích hoạt tình hình lạm phát diễn ra nhanh hơn.

Giá cả thị trường dầu nhớt Việt nam.

Giá dầu nhớt tại Việt nam không liên quan đến chính sách cung tiền của Chính phủ Việt nam. Giá dầu nhớt tại Việt nam liên quan đến Covid-19. Khi toàn cầu rơi vào trạng thái “không dịch chuyển” do lệnh phong tỏa trên khắp thế giới; nhu cầu về nhiên liệu: xăng, dầu diesel và cả kerosene (xăng máy bay) tiêu thụ thấp kỷ lục. Các nhà máy lọc dầu phải tạm ngưng sản xuất vì thiếu chỗ tồn trữ các loại nhiên liệu này, dẫn đến sự thiếu hụt dầu gốc, là nguyên liệu để sản xuất dầu nhớt.

Trong lịch sử nhân loại sau cuộc khủng hoảng phạm vi toàn cầu như chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh…thì sau đó là cuộc khủng hoảng về kinh tế mà chính xác hơn đó là thiếu hụt hàng hóa cho công cuộc tái thiết, giá hàng hóa sẽ tăng cao… Tuy nhiên, tự bản thân nền kinh tế thế giới cũng tự diễn ra các cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ, nguyên nhân do sự đổ vỡ của một số yếu tố kinh tế trọng yếu hay sai lầm/chủ ý của một số quốc gia/tổ chức có nền kinh tế chi phối được…Các cuộc khủng hoảng kinh tế này thì ngược lại sẽ kéo giá cả hàng hóa đi xuống.

Việt nam bị ảnh hưởng rất nhanh do sự mở cửa kinh tế với thế giới và ảnh hưởng rõ nhất trong vấn đề nguyên liệu/công cụ sản xuất hàng hóa trong đó đối với Trung quốc chủ yếu. Khi Trung quốc hồi phục sau đại dịch nhu cầu về nguyên liệu tăng đột biến như thỏi nam châm hút vào thị trường này làm giá cả tất cả các loại hàng hóa tăng cũng như vận chuyển mất cân bằng giữa các thị trường khác nên gây nên cuộc khủng hoảng về giá như hiện nay trên toàn thế giới.

Tính từ mốc tháng 5/2020, giá dầu gốc thấp nhất cho đến nay, giá dầu gốc và vận chuyển đã tăng 50%. Về hàng hóa dầu nhớt, giá vốn có mức tăng cũng tương đương. Nhưng tại Việt nam, giá dầu nhớt tăng trung bình 30% tính từ đầu năm cho đến tháng 5/2021, do vậy mức lợi nhuận nhà sản xuất dầu nhớt bắt buộc giảm? Không hề, vấn đề liên quan đến tồn kho và các hợp đồng kỳ hạn với giá đảm bảo thời gian tương đối dài. Các cuộc khủng hoảng giá dầu gốc như vậy càng làm cho lợi nhuận của hãng sản xuất dầu nhớt tăng cao. Vấn đề là nhãn hiệu có trung thực chia sẽ cho người tiêu dùng. Trong giai đoạn hiện nay và sắp tới, sẽ có nhãn hiệu sẽ đóng cửa vì thiếu hụt nguồn dầu gốc sản xuất.

Tình hình sản xuất dầu nhớt thương hiệu nhỏ tại Việt nam

Trong tiêu đề tin tức Eska:http://new.eska.vn/tin-tuc/bao-cao-thi-truong-dau-goc-thang-4/, có nhấn mạnh:” Khi dầu gốc được đấu giá, tương lai nào cho các hãng pha chế dầu nhớt nhỏ tại Việt nam?” Tuy nhiên, đây là dòng“giật tít, câu view” theo phong cách báo chí  vì các hãng sản xuất nhỏ tại Việt nam… vẫn bình chân như vại, mặc dù, có chững lại về tiến độ hàng hóa cung cấp.

Eska đề cập đến phân khúc dầu gốc có độ nhớt cao như BS (Bight stock)… Nhóm 1 được đấu giá theo lô trong thời gian tháng 4/2021 và vẫn tiếp tục cho đến nay vì các Nhà máy sản xuất dầu nhóm 1 đóng cửa đáng kể. Thế nhưng, loại dầu gốc này được sử dụng rất ít trong sản xuất hiện nay, ngoại trừ một số sản phẩm như: dầu hộp sô, cầu truyền động, dầu bánh răng công nghiệp,…

Thông thường các hãng vẫn sử dụng dầu gốc có độ nhớt thấp để pha trộn với các loại Copolymere (được cho là VII- Viscosity Index Improver) để tạo sản phẩm có độ nhớt cao hơn. Tùy theo kiến thức của từng hãng và “đạo đức” mà thành phần pha trộn nhiều hay ít. Khi xét đến VII cần đánh giá chỉ số SSI (Shear Stability Index– Chỉ số ổn định độ nhớt) của loại polymere đó có phù hợp được vào dầu nhớt hay không. Nếu SSI thấp polymere rất nhanh bị thoái hóa bởi oxy hóa và nhiệt, làm giảm độ nhớt cũng như vỡ màng dầu bôi trơn; polymere này sẽ tạo thành dạng bùn (sludge) bám trên lọc và khe hở máy trong hệ thống thủy lực, động cơ,… Do đó, vẫn tồn tại sản phẩm trên thị trường của rất nhiều và nhiều nhãn hiệu được sản xuất chỉ thỏa mãn tính chất lý hóa bề nổi của sản phẩm với tiêu chí SAE, API,…và qua mặt cả “Thông tư 06/2018/TT-BKHCN: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dầu nhờn cho động cơ đốt trong

Có thể khẳng định rằng Quy chuẩn quốc gia dầu nhờn như vậy là vô nghĩa, chỉ mang hình thức, không phản ánh được việc kiểm soát chất lượng dầu nhớt động cơ hiện nay, mặc dù có cả trăm loại dầu mỡ nhờn ứng dụng khác. Việc hợp quy đang là gánh nặng cho nhà sản xuất cũng như thương nhân nhập khẩu vì chi phí giá vốn, thời gian và thủ tục,…

Trong phạm vi nhỏ của bài viết ESKA đề cập đến khía cạnh nhỏ của tình hình nguyên liệu và sản xuất của nhiều nhãn hiệu hiện nay. Trong bài viết chuyên về sản xuất dầu nhớt, ESKA sẽ đề cập sâu hơn vấn đề này,… Vì nói sản xuất chỉ để người sản xuất hiểu.

Đi tìm thương hiệu dầu nhớt…

Ngoài các thương hiệu lớn như Castrol, Shell, Total, Chervon,…thị trường dầu nhớt hiện nay tồn tại khoảng 200 thương hiệu dầu nhớt các loại. Thế thì 200 thương hiệu là nhiều hay ít? Có người nói sẽ còn nhiều thương hiệu mới hơn nữa kia. Khi việc nhập khẩu hàng hóa quá dễ dàng thì sẽ tồn tại sự phát triển của dầu nhớt nhập khẩu; khi dầu gốc dư thừa như một vài năm trước, nhiều người sẽ sản xuất vì dầu nhớt rẻ; khi môi trường pháp lý không nghiêm vẫn tồn tại các “lò nấu nhớt” sản xuất nhớt tái sinh,…và đủ các loại hình thái của thương hiệu. Thế thì đi tìm thương hiệu dầu nhớt dựa vào đâu?

Các hãng danh tiếng thì không phải bàn vì họ có đủ tiềm lực để phát triển. Có sự lâu đời như Castrol, Shell, Valvoline, Mobil, Chevron…thì có nghiên cứu kỹ thuật về dầu nhớt cả hàng trăm năm. Trước đây, Shell và Esso, Caltex,…đều có hãng nghiên cứu riêng về phụ gia cho dầu nhớt, cũng nhờ đó mà các hãng này tạo dựng được danh tiếng qua các sản phẩm huyền thoại,…Nay việc mua bán- sáp nhập nên có lẽ tồn tại một hãng phụ gia chắc chỉ còn Chevron?

Nếu không chuyên về dầu nhớt (chuyên về khai thác dầu khí) như BP, Total nhưng có nhiều tiền thì bỏ tiền ra mua lại các hãng dầu nhớt đặc biệt. BP mua Castrol; Total mua Elf (Pháp), Fina (Bỉ); Nevastane (Mỹ) và Petronapht (Pháp),…Ở Việt nam, Motul (Pháp) mua Vilube (VN) không phải vì Vilube tốt sản phẩm và hệ thống mà mua hạ tầng nhà máy để phát triển mạnh mẽ tại Châu á,…

Nhiều nhất là thương hiệu nhập khẩu từ nhiều nước khác nhau: Mỹ, Châu Âu, Châu Á, Úc Châu …chỉ thiếu Phi Châu. Thế thì nhập khẩu dầu nhớt rất dễ, chỉ cần có tiền, nhưng gây dựng thương hiệu dầu nhớt nhập khẩu rất khó. Trước đây thành công nhất là GS (Hàn quốc), Valvoline( Mỹ), Blackgold/Eska (Singapore) vì xây dựng được hệ thống bán hàng quy mô từ Bắc-Nam. Đa phần còn lại các thương hiệu nhập khẩu tập trung vào một phân khúc nhất định dễ nhất là vài sản phẩm thông dụng (commodities) và trong địa bàn nhất định với đối tượng khách hàng thân thiết nhất định…

Có nhãn hiệu quảng bá dầu nhớt nhập 100% của Mỹ, Singapore,… nhưng sản xuất tại Việt nam. Có thương hiệu quảng bá là thương hiệu Mỹ nhưng sản xuất tại Malaysia,…cũng có thương hiệu của Việt nam nhưng sản xuất tại Singapore. Thông thường xây dựng thương hiệu rất khó và nên dễ nhất là tìm tòi và đem về Việt nam thương hiệu nước ngoài có sẵn. Thế nhưng, muốn tồn tại và phát triển thì thương hiệu đi kèm sản phẩm phải có nguồn gốc trung thực, rõ ràng vì ngày nay người tiêu dùng ngày càng thông minh do thế giới trở nên “phẳng” trên màn hình laptop hay điện thoại thông minh.

Nếu là dân làm dầu nhớt chuyên nghiệp thì làm dầu nhớt nhập khẩu…rất khó. Vì sao?

(Còn tiếp)

6/5/2021…Viết từ ngày 30/4

Theo ESKA, Made in Singapore

Bài viết có sử dụng tư liêu từ Báo Thanh niên và quan điểm cá nhân

Báo cáo dầu gốc khu vực Châu Á và thị trường dầu nhớt tại Việt Nam (26.4.2021)

0

Sự thiếu hụt một số loại dầu gốc, giá cao và ảnh hưởng của đại dịch đang diễn ra đã đè nặng lên giao dịch dầu gốc trong tuần. Trong khi nhu cầu dầu nhớt vẫn đều đặn, thì  tình hình dịch bệnh tăng cao tại các thị trường trọng điểm như Ấn Độ có thể ảnh hưởng đến tiêu thụ nhiên liệu và dầu nhớt  trong thời gian tới.

Các nhà máy pha chế dầu nhớt ở một số quốc gia ở châu Á và Trung Đông cũng nói rằng đại dịch COVID-19 có ảnh hưởng lâu dài đến kinh doanh – bất chấp các chiến dịch tiêm chủng đang diễn ra ở nhiều quốc gia. Nhiều công ty nhỏ hơn đã buộc phải ngừng sản xuất tạm thời hoặc đóng cửa khi chi phí sản xuất tiếp tục tăng, trong khi giá sản phẩm trên thị trường không theo kịp với những sự gia tăng này.

Tuy nhiên, cho đến nay, Ấn Độ vẫn là một thị trường sôi động, với nhu cầu về dầu gốc không giảm và thương nhân vẫn đang tìm kiếm các loại dầu gốc có độ nhớt cao. Nhu cầu dầu gốc không bị ảnh hưởng bởi đại dịch, Vấn đề giá mua của Ấn Độ không cao như ở các thị trường khác,  nên đất nước này không thu hút được nhiều hàng hóa. Một nhà cung cấp Trung Đông lưu ý rằng các giá đã tăng rất nhiều ở các khu vực khác, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Châu Âu và Nam Mỹ, đến nỗi hầu hết các lô hàng đã bị lôi kéo chuyển đến các điểm đến này.

Trung Quốc cố gắng hút nhiều hàng hóa hơn từ Đông Nam Á, vì nguồn cung trong nước của một số loại dầu gốc độ nhớt cao không đủ để đáp ứng nhu cầu. Cũng đã có nhiều nguồn từ Hàn Quốc và Đài Loan nhóm II chuyển đến Trung Quốc trong những tuần gần đây.

Sự cố gần đây khi tàu Green Given  bị mắc cạn trên kênh đào Suez, dẫn đến việc vận chuyển dầu gốc bị trì hoãn và chi phí tăng lên khi các tàu mất nhiều thời gian hơn để hoàn thành một chuyến đi. Một vấn đề khác là tìm đủ tàu container cho các lô hàng linh hoạt trên một số tuyến đường nhất định. Nhiều tàu vận chuyển sản phẩm từ Trung Quốc sang Mỹ, nhưng không có nhiều hàng hóa di chuyển từ Mỹ sang Trung Quốc, vì vậy các container bị mắc kẹt ở đó, chờ được lấp đầy.

Trong khi đó, về mặt sản xuất, các nhà máy xoay vòng bảo dưỡng ở Hàn Quốc đã dẫn đến nguồn cung căng thẳng. Nhà máy của SK ở Ulsan dự kiến sẽ hoàn thành công việc bảo trì trong tuần này, trong khi nhà máy của GS Caltex ở Yeosu cũng dự kiến sẽ khởi động lại trong vài ngày tới. Không có xác nhận nào có sẵn tại thời điểm viết bài.

Nguồn cung tại chỗ nhóm III từ Trung Đông cũng bị hạn chế, với các nhà sản xuất thực hiện các hợp đồng kỳ hạn, nhưng có thể cung cấp rất ít nguồn cung giao ngay. Tương tự, thiếu hụt nguồn cung nhóm I do vấn đề sản xuất ở Iran, một nguồn chính của dầu gốc nhóm I.

Các nhà máy mở rộng nhóm I ở Singapore, Nhật Bản và Ấn Độ, việc ngừng bảo trì gần đây ở Thái Lan và sự cố mất điện ngoài dự định ở Nhật Bản vào cuối tháng 3 đã dẫn đến hạn chếhàng hóa có sẵn giao ngay trong phân khúc đó. Nhà sản xuất Nhật Bản ENEOS đã buộc phải ngưng nhà máy sau một vụ hỏa hoạn tại nhà máy lọc dầu Wakayama vào ngày 29 tháng 3. Các báo cáo hiện nay  rằng ExxonMobil, người nắm quyền thương mại cung cấp sản phẩm tại nhà máy lọc dầu ENEOS sẽ chỉ  đáp ứng các thỏa thuận hợp đồng và hoạt động pha chế riêng mình, đã tuyên bố bất khả kháng (không bán)  đối với dầu gốc nhóm I ở châu Á Thái Bình Dương vì cơ sở riêng của họ ở Singapore cũng đã giảm kể từ tháng 6 năm 2020. Nhà sản xuất (ENEOS) không xác nhận tuyên bố bất khả kháng.

Do đó, giá giao ngay ở châu Á đã tăng ít mạnh hơn so với những tuần trước, với những điều chỉnh tăng thể hiện ảnh hưởng đến mức khan hiếm.  BS (Bright stock) là loại khó xác định vị trí nhất và giá đã tăng trở lại trong tuần này. Hoạt động pha chế vẫn bị khuất phục do thiếu nguồn cung tại chỗ trong khu vực.

Tại Việt nam, tình trạng khan hiến và giá dầu gốc tăng cao cũng đẩy một số nhà sản xuất nhỏ vào tình trạng ngưng sản xuất và không có sản phẩm cung cấp cho hệ thống bán hàng. Một số ông lớn như Castrol cũng rất hạn chế giao hàng cho hệ thống phân phối vì thiếu dầu gốc. Sự thông minh của nhãn hàng là biết lựa chọn những sản phẩm có lợi nhuận tốt để sản xuất trong khi các sản phẩm còn lại tạm thời… đóng băng. Với nguồn HSB thì Shell có lợi thế lớn so với các nhãn hiệu còn lại…

Tất cả các nhãn hiệu lớn đều thông báo tăng giá lần thứ 3 trong vòng 2 tháng. Mức tăng tính chung tùy theo nhãn hiệu nhưng tổng cộng không dưới 25% như trước đây ESKA có đề cập để tồn tại theo tình hình hiện nay.

Ngoài các hãng lớn có hợp đồng kỳ hạn, các nhãn hiệu nhỏ phải “ăn đong” theo nguồn dầu gốc không ổn định. Giá dầu sẽ còn tăng không vì giá dầu thô (crude oil) tăng mà vì đại dịch sẽ còn kéo dài ảnh hưởng đến nhu cầu nhiên liệu liên quan.

Khu vực Châu á sẽ còn bất ổn vì tỷ lệ tiêm vaccine còn thấp trong khi đó dịch bùng lên mạnh mẽ tại Nam á (Ấn độ) và Đông nam á (Thái Lan, Lào, Cambodia…)

Lược dịch từ Lube Asia và theo ESKA Singapore.

Ngành công nghiệp dầu nhớt Việt Nam: năm Covid 19-lần thứ nhất (P6): Phân khúc dầu công nghiệp (Industrial Oil)

0

Tình hình về các khu công nghiệp của Việt Nam trong thời gian vừa qua

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến cuối tháng 10/2020, cả nước có 369 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 113,3 nghìn ha, trong đó 280 khu công nghiệp đang hoạt động, 89 KCN đang xây dựng cơ bản.

Đến năm 2020, Việt Nam đã triển khai trên 10 dự án có quy mô dao động từ 1.500 ha đến trên 2.000 ha, phân bổ đều khắp cả nước. Điển hình trong số đó là khu công nghiệp Phước Đông (Tây Ninh), khu công nghiệp Hiệp Phước (TP.HCM), khu công nghiệp Becamex (Chơn Thành – Bình Phước)…

Bên cạnh đại dịch, ảnh hưởng từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung cũng khiến nhiều tập đoàn, doanh nghiệp đang đổ đi tìm các vùng đất mới. Nhờ đó, Việt Nam tiếp tục được coi là điểm đến đầu tư an toàn và đứng trước một làn sóng dịch chuyển dòng vốn đầu tư từ Trung Quốc chuyển sang.

Điều đó có thể quan sát thấy khi mà nhà đầu tư Jinyu Tire của Trung Quốc đã dịch chuyển vào khu công nghiệp Phước Đông (Tây Ninh) với tổng vốn 312 triệu USD.

Mới đây nhất, Foxconn – đối tác lắp ráp lớn nhất của Apple đã quyết định đặt các nhà máy tại khu công nghiệp Quang Châu – Bắc Giang với vốn đầu tư 270 triệu USD. Hơn nữa, doanh nghiệp này có thể sẽ đặt thêm dự án đầu tư 1,3 tỷ USD tại một trong ba khu công nghiệp lớn của tỉnh Thanh Hóa.

Tháng 5/2020, tại tỉnh Long An, dự án khu công nghiệp sinh thái lớn nhất cả nước đã được khởi công. Với diện tích rộng 1.800 ha, khu công nghiệp được đầu tư theo hướng xanh, sạch, bền vững góp phần đón đầu “làn sóng” dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu hậu Covid-19 của Việt Nam.

Tình hình về các ngành công nghiệp năm 2020

Dịch Covid-19 được kiểm soát tốt ở trong nước, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và EU (EVFTA) được thực thi nên sản xuất công nghiệp trong quý IV/2020 có sự khởi sắc với tốc độ tăng giá trị tăng thêm đạt 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2020, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 3,36% so với năm 2019, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,82%, giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế.

Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,92%, chủ yếu là do đóng góp của sản xuất năng lượng tái tạo như điện gió và điện mặt trời. Các nhà máy nhiệt điện vẫn duy trì hoạt động và không có nhà máy mới đưa vào hoạt động. Tổng công suất các nhà máy nhiệt điện than khoảng 26.000 MW (chiếm 42,7% công suất nguồn toàn hệ thống, chiếm 49,3% sản lượng điện) với 26 nhà máy và tổ hợp đang vận hành. Khác với thời kỳ 1990-2010, Việt Nam tập trung khai thác mạnh mẽ nguồn thủy điện thì cho đến những năm gần đây, nhận thấy sự bất cập của thủy điện tác động đến môi trường, nhất là nguồn nước, hầu như rất ít thủy điện được đưa vào vận hành ngoại trừ các thủy điện nhỏ (5-20MW) đã được cấp phép từ trước còn đang thi công.

Dầu nhớt phục vụ cho ngành sản xuất và truyền tải điện nhiều nhất là dầu turbine, thủy lực (thủy điện) và biến thế (truyền tải). Một số loại dầu mỡ công nghiệp thông dụng phục vụ cho nhà máy nhiệt điện,..v.v. Đối với các nhà máy điện gió (phong điện) sử dụng dầu mỡ cao cấp (gốc tổng hợp PAO) vì chu kỳ bảo dưỡng dài và điều kiện khó khăn, nhất là các loại dầu bánh răng, mỡ bôi trơn…Trong thời kỳ bắt đầu phát triển, Việt nam xây dựng nhiều nhà máy điện và thủy điện, nên lượng dầu turbine và biến thế thường ghi nhận từ 5-7% lượng dầu công nghiệp hàng năm. Tuy nhiên khi không có xây mới thì lượng dầu chỉ dùng lại mức thay thế và bổ sung sản lượng tiêu thụ không nhiều.

 Ngành khai khoáng giảm 5,62% (do sản lượng khai thác dầu thô giảm 12,6% và khí đốt tự nhiên giảm 11,5%), sản xuất than cốc và sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 11,4%, nhưng hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ và quặng giảm 33,5%. Khi hoạt động khai thác khoáng sản giảm, thì dịch vụ phục vụ cho ngành sẽ giảm nhiều lần. Điểm sáng duy nhất ngành khai khoáng là sự hoạt động năng suất cao của các mỏ đá xây dựng từ Bắc vào Nam khi Chính phủ Việt nam thúc đẩy đầu tư công trong xây dựng hạ tầng, đặc biệt khu vực phía Nam và hệ thống đường cao tốc Bắc Nam,.. Dầu nhớt phục vụ cho ngành khoáng sản chiếm 20% còn lại 80% do dịch vụ hỗ trợ khai thác sử dụng, trong đó ngành vận tải chiếm đa số.

Vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 8,1%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 8,9%, trong đó dầu nhớt sử dụng trong ngành dệt chủ yếu chiếm đa số trong sản xuất sợi nhân tạo (nylon, polyester,..) chiếm tỷ lệ thấm dầu (OPU- Oil Pick Up) từ 1-3% trọng lượng sợi. Ngoài ra một số sản phẩm phụ trợ khác như dầu dệt kim, spindle oil ,..chiếm tỷ trọng không nhiều trong phân khúc dầu công nghiệp. Việt nam có nhiều hiệp định thương mại với các quốc gia và khối quốc gia (BTA), nên Việt nam được xem như xưởng dệt và may mặc của thế giới (sau Trung quốc,  Ấn độ) vì chi phí nhân công còn thấp, tuy nhiên sợi nhân tạo của Việt nam sản xuất đã cung cấp nhiều nước trên thế giới. Tại Việt nam, chưa có đơn vị nào chuyên sản xuất các loại dầu nhớt phục vụ cho ngành dệt và sợi (DTY- Draw Texturized Yarn, POY- Polyester Yarn) mà đa số nguồn nhập khẩu từ Đài loan, Hàn quốc vì ở đó có nguồn dầu gốc giá rẻ.

Ngành công nghiệp mía đường ngày càng tuột dốc. Năm 2020, giảm 22,9% sản lượng so với năm trước, cái chính là giá thành sản xuất đường Việt nam luôn luôn cao hơn các nước trong khu vực như Thái Lan,.. Các nhà máy đường đóng cửa hàng loạt vì thiếu nguyên liệu, nông dân trồng mía chuyển đổi sang các loại cây trồng khác có hiệu quả cao hơn. Song song đó, nền sản xuất đường công nghệ lạc hậu nên giá thành sản phẩm cao. Hiện nay số lượng nhà máy đường hoạt động chỉ đếm trên đầu ngón tay như Lam Sơn (Thanh Hóa), Quãng Ngãi, TTC,…Dầu nhớt cho ngành công nghiệp này cũng teo dần và mất tính cạnh tranh, chỉ sử dụng như thói quen hàng năm.

Năm 2020, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,82% so với năm trước; sản xuất mô tô, xe máy giảm 9,7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc, thiết bị giảm 9,4%; sản xuất xe có động cơ giảm 6,7%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 1,8%; sản xuất kim loại tăng 14,4%.

Đây là nhóm ngành có sự tăng trưởng cao trong phân khúc dầu nhớt công nghiệp. Ngoài một sô loại dầu động cơ sử dụng trong sản xuất động cơ và máy móc, nhóm ngành dầu gia công xử lý kim loại được sử dụng nhiều trong nhóm ngành này. Theo ESKA quan sát, các nhà máy công nghiệp chế tạo có khuynh hướng sử dụng các sản phẩm dầu cắt gọt kim loại cao cấp, có tính phân hủy môi trường khác với sử dụng gốc khoáng như trước đây.

Ngành công nghiệp thép, trong đó thép cán tăng 16,4%, thép thanh, thép góc cùng tăng 9,1%, sắt, thép thô tăng 5,3% …là một năm tăng trưởng của ngành thép nói chung. Dầu nhớt sử dụng trong ngành thép đa dạng: từ các loại dầu mỡ thông dụng như thủy lực, bánh răng,..cho đến dầu cắt gọt kim loại và dầu xử lý bề mặt kim loại (temper fluid). Đây là ngành công nghiệp có dãy sản phẩm rộng và sản lượng tiêu thụ cao; các loại dầu cho ngành thép nhìn chung sử dụng cao cấp phù hợp với dây chuyền công nghệ và thiết bị được khuyến nghị kèm theo. Tuy nhiên, khi trình độ vận hành của nhà máy ngày càng nâng cao thì sản phẩm thay thế phù hợp được lựa chọn nhiều, tăng tính cạnh tranh trong cung cấp dầu nhớt.

Thị trường dầu nhớt cho phân khúc dầu công nghiệp

Là thị trường được nhắm đến của các nhãn hiệu đa quốc gia như Shell, Castrol, Total,..khi họ có năng lực nghiên cứu các sản phẩm phù hợp với ngành công nghiệp. Đi theo dòng dịch chuyển của các doanh nghiệp Trung quốc đầu tư tại Việt nam, thị trường xuất hiện thêm thương hiệu dầu nhớt của Trung quốc như Sinopec,..Ngoài ra, một số sản phẩm đặc biệt phục vụ trong thị trường ngách như dầu gia công kim loại, dầu trong công nghiệp chế biến thực phẩm hay dầu kéo sợi,…được nhập khẩu độc quyền tùy theo nhãn hiệu,…thông qua chủ yếu các công ty thương mại. Thật ra, trong mảng kinh doanh dầu nhớt chung chung, thì dầu nhớt phục vụ cho thị trường ngách trong công nghiệp là mảng có lợi nhuận tốt nhất và tăng trưởng đều đặn hàng năm. Rất ít công ty tại Việt nam có sự nghiên cứu sâu về các sản phẩm công nghiệp và sản xuất để phục vụ cho ngành như ESKA.

28.3.2021…đừng cố bơi ngược dòng đại dương.

Theo ESKA, Made in Singapore

Trong bài có sử dụng tư liệu và số liệu từ internet và đồng nghiệp khác.

Báo cáo thị trường nguyên liệu dầu gốc tháng 4 tại Châu Á

0

Khi dầu gốc được đấu giá, tương lai nào cho các hãng pha chế dầu nhớt nhỏ tại Việt nam?

Vấn đề tồi tệ này là do nhu cầu nhiên liệu thấp dẫn đến giảm tốc độ hoạt động tại một số nhà máy lọc dầu, hạn chế lượng nguyên liệu có sẵn cho sản xuất dầu gốc. Ví dụ, sự bùng phát trở lại của COVID-19 và các đột biến mới của vi-rút ở Ấn Độ, dự kiến sẽ có thêm những hạn chế, giảm sự dịch chuyển của người dân kéo theo giảm nhu cầu nhiên liệu và dầu nhớt bôi trơn.

Nguồn  cung cấp tại chỗ  vẫn căng thẳng ở châu Á dự kiến sẽ không được cải thiện đáng kể trong thời gian sớm, vì một số nhà máy đóng cửa để bảo trì và nhu cầu  cao điểm mùa xuân. Khó khăn nghiêm trọng trong việc tìm nguồn cung ứng dầu gốc và giá giao ngay tiếp tục đi lên.

Nhiều nhà máy dầu gốc đang trong quá trình hoàn thành việc bảo dưỡng, trong đó có 2 nhà máy dự kiến sẽ khởi động lại trong vòng vài tuần tới.

Một trong những loại dầu gốc chịu ảnh hưởng nặng nề của sự thiếu hụt nguồn cung là nhóm dầu API Group I, đặc biệt khó khăn để tìm nguồn dầu gốc có độ nhớt cao (SN 500/SN600/SN700) và BS (Bright Stock). Điều này đã đẩy giá giao ngay lên mức cao lịch sử và khiến người tiêu dùng tìm kiếm các lựa chọn thay thế khác hoặc sử dụng các loại dầu Naphthenic  hay bất cứ loại nào có thể thay thế. Tuy nhiên, nguồn cung cấp dường như cũng ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực có liên quan và dầu gốc naphthenic cũng  vậy.

Ngoài ra, hiện tại, mua càng nhiều  càng tốt nếu có hợp đồng dài hạn, khiến các nhà cung cấp có ít hoặc không có dầu gốc bán ở thị trường giao ngay. Trong một số trường hợp, những người mua này đã bán một phần dầu gốc của họ trên thị trường giao ngay, vì giá vượt quá giá của dầu gốc được mua theo hợp đồng rất nhiều. Các hãng pha chế dầu nhớt đang  tăng cao giá dầu nhớt để bù đắp giá dầu gốc và vận chuyển tăng

Các nhà sản xuất tại Đông Nam Á gần đây đã cung cấp các loại dầu gốc độ nhớt cao và BS thông qua đấu thầu. Tuần trước, một lô dầu gốc có độ nhớt cao của Thái Lan đã được bán và 2 lô khác dự kiến sẽ được tiếp tục đấu giá trong vài ngày tới cho đợt giao  hàng tháng Tư.

Các thương nhân Trung Quốc ráo riết tìm kiếm các loại dầu gốc độ nhớt cao ở Đông Nam Á bằng cách tăng giá thầu của họ, dẫn đến giá cao hơn hàng tuần.

Các nhà máy pha chế nhớt ở Ấn Độ cũng đã tham gia đấu thầu các lô dầu gốc độ nhớt cao ở Đông Nam Á, nhưng ít thành công hơn do..run tay. Tuy nhiên, họ đã có thể mua các loại độ nhớt thấp hơn từ Hàn Quốc và Qatar.

Ấn Độ phải đối phó với cả căng thẳng khi phải tìm hàng hóa trong khu vực và giá cả leo thang. Trong khi Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Hoa Kỳ là những nguồn cung dầu gốc thường xuyên cho Ấn Độ, sự khan hiếm tại các nguồn này khiến  Ấn Độ buộc phải tìm kiếm ở nơi khác. Giá cung cấp cho nội địa cao hơn, chẳng hạn như Mỹ và Đài Loan, khiến giá kinh doanh xuất khẩu không hấp dẫn.

Đã có báo cáo rằng một vài lô dầu Nhóm I nhỏ đã chuyển từ Iran sang Ấn Độ, trong khi khối lượng bổ sung các loại cao cấp cũng dự kiến sẽ được vận chuyển từ Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Qatar trong tháng này. Ấn độ có nhà máy sản xuất dầu Nhóm I, nhưng một nhà máy này đã bị đóng cửa trong một thời gian dài do một nhà máy lọc dầu khác có liên quan.

Tại Nhật Bản, Eneos đã đưa một trong hai nhà máy Nhóm I của mình ở Mizushima  vào bảo dưỡng trong vòng bốn tháng – có vẻ như từ tháng 2 đến cuối tháng 5 hoặc tháng 6 – mặc dù điều này không thể được xác nhận.

Tại Thái Lan, nhà máy TPI sản xuất dầu gốc Nhóm I đã được nghe nói đã bắt đầu một chương trình bảo trì vào đầu tháng 3 và nhà sản xuất dự kiến sẽ không hàng hóa, theo các nguồn tin. Một nhà cung cấp Thái Lan thứ hai  (PTT) cũng được nghe nói đã hạn chế doanh số bán hàng giao ngay của mình.

Việc mở rộng tại một nhà máy nhóm I ở Singapore (Exxonmobil), bắt đầu vào tháng 6 năm ngoái, cũng dẫn đến giảm tính sẵn có trong khu vực và nhà sản xuất cần phải dựa nhiều vào các lô hàng nội bộ của công ty từ các nhà máy ở các khu vực khác cho các hoạt động dầu nhờn của riêng mình.

Nhiều nhà máy nhóm I đã bị đóng cửa trong những năm gần đây do lo ngại về môi trường và lo ngại về lợi nhuận và điều này đã làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt nguồn cung.

Nguồn cung eo hẹp không chỉ ảnh hưởng đến phân khúc dầu gốc Nhóm I, mà còn ảnh hưởng đến phân khúc Nhóm II và Nhóm III, khi hai nhà sản xuất lớn của Hàn Quốc đang hoàn thành mở rộng. Một nhà sản xuất thứ ba ở Hàn Quốc đang chạy hết công suất trong tháng này, nhưng hàng sẵn có cũng bị hạn chế. Một nhà sản xuất khác đã được nghe nói đã cung cấp dầu có độ nhớt thấp trong tháng này

GS Caltex đã đưa nhà máy Yeosu hoàn tất chương trình bảo trì thường xuyên vào đầu tháng 3, theo các nguồn tin, nhưng không thể có được chi tiết về ngày khởi động lại

Sk Lubricants bảo trì nhà máy Group III ở Ulsan vào tuần đầu tiên của tháng 3, thời gian dự kiến sẽ kéo dài 30-45 ngày. Công ty ít có khả năng cung cấp hàng hóa thêm sau khi bảo dưỡng vì nhà sản xuất đã không có hàng tồn kho trước khi ngừng hoạt động. SK cũng đang lên kế hoạch bắt đầu bảo dưỡng nhà máy SK-Repsol ở Cartagena, Tây Ban Nha, vào tháng 6.

Giá giao ngay châu Á đã cho thấy mức tăng lớn một lần nữa trong tuần này – ngoại trừ, dầu có độ nhớt thấp – nhưng mức tăng không nhảy vọt như những gì đã thấy trong tuần trước. Nhưng lưu ý rằng hầu hết giá cả phần lớn là khái niệm giao sau (giá tương lai) vì hầu như không có bất kỳ sản phẩm giao ngay nào để giao dịch. Một nhà máy lọc dầu lớn có trụ sở tại Singapore đã công bố mức tăng từ 40-190 đô la mỗi tấn vào giữa tháng 3 và những đợt tăng giá này đã phần nào thúc đẩy các đánh giá trong tuần này.

Giá ex-tank Singapore tăng trong tuần này phù hợp với mức tăng cao hơn của một nhà sản xuất lớn. Nhóm I SN150 tăng $ 60 / t lên $ 920 / t- $ 950 / t. SN500 cũng cao hơn $ 60 / t ở mức $ 1,480- $ 1,520 / t. BS đã tăng 100 USD/t lên 1.630 USD/t-1.670 USD/t, tất cả đều là giá ex-tank Singapore

Nhóm II 150N  tăng 30 USD/t lên 1.000 USD/t-1.040 USD/t, và N500 tăng 60 USD/t ở mức 1.350 USD/t-1.390 USD/t, ex-tank Singapore.

Giá FOB Asia, Nhóm I SN150 được  tăng 50 USD/t ở mức 830 USD/t-870 USD/t, và SN500 tăng 60 USD/t lên 1.430 USD/t-1.470 USD/t. BS tăng 90 USD/t lên 1.590 USD/t-1.630 USD/t, FOB Asia.

Nhóm II 150N tăng 20 USD/t lên 820 USD/t-860 USD/t FOB Châu Á, trong khi 500N và 600N tăng 30 USD/t lên 1.170 USD/t-1.210 USD/t, FOB Asia.

Trong phân khúc Nhóm III, 4 cSt được tăng 40 USD/t ở mức 1.140- 1.180 USD/t và 6 cSt cũng được điều chỉnh tăng 40 USD/t lên 1.160 USD/t-1.200 USD/t. Loại 8 cSt cũng cao hơn $ 40 / t ở mức $ 1,090-1,130 / t, FOB Asia.

Đối với dầu thô, hợp đồng tương lai dầu thô sụt giảm trong tuần này, bất chấp một đợt tăng giá ngắn khi một tàu container bị mắc cạn trên kênh đào Suez. Giá dầu thô đã bị áp lực bởi những lo ngại về việc phong tỏa đại dịch mới và việc triển khai vắc-xin chậm ở châu Âu, dẫn đến nhu cầu dầu giảm. Các nhà phân tích đang nóng lòng tìm hiểu xem LIỆU OPEC+ có quyết định tiếp tục cắt giảm sản lượng vào tháng 4 hay không.

Vào thứ Năm, ngày 25 tháng 3, hợp đồng tương lai của Brent tháng 5 được giao dịch ở mức 63,30 đô la mỗi thùng, từ mức 67,36 đô la / bbl vào ngày 18 tháng 3 trên sàn giao dịch ICE Futures Europe có trụ sở tại London.

Theo Gabriela Wheeler, Lube Asia, 31.3.2021

ESKA lược dịch, 

Giá xăng dầu từ tháng 6/2020 vs Giá dầu nhớt hiện tại ?

0

Sau đợt không điều chỉnh tăng giá Xăng, Dầu ngày 10/2 để “nhân dân” được ăn Tết “phấn khởi” (chi quỹ bình ổn)  , ngày 25/2/2021, Việt nam tăng giá mạnh các mặt hàng xăng dầu.

Trong 18 đợt điều hành tăng/giảm giá xăng dầu kể từ 12/6/2020 cho đến 25/2/2021, có đến 14 đợt tăng giá và 4 đợt giảm giá mặt hàng này. Cho đến nay, giá Xăng tăng 27% và Dầu Diesel tăng 20%.

Thị trường giá dầu nhớt tại Việt nam có sự điều chỉnh, bắt đầu từ tháng 12/2020 cho đến hết tháng 3/2021 với 1,2 đợt tăng giá tùy theo Hãng. Tính bình quân mức tăng khoảng 15%.

Vậy mức giá này có hợp lý? Theo ESKA mức tăng khoảng 25% là hợp lý vì mặt hàng xăng dầu có “méo mó” giá do Quỹ bình ổn! Nhưng dầu nhớt là thị trường mở, tự do cạnh tranh. Vậy tăng thấp, margin các hãng sản xuất dần teo tóp lại? Đó là điều chắc chắn!

Theo ESKA Singapore

Ngành công nghiệp Dầu nhớt Việt nam: năm Covid-19 lần thứ nhất (P5): Tổng kết dầu nhớt vận tải (Automotive Oil)

0

Ngành vận tải chiếm lượng tiêu thụ dầu nhớt ước tính khoảng 74% thị phần dầu nhớt tại Việt Nam, trong tổng số 390 ngàn tấn tiêu thụ, với tốc độ tăng trưởng trong vòng 5 năm trở lại đây tỷ lệ tăng trưởng kép CAGR (Compound Annual Growth Rate) trung bình khoảng 3.5%, trước năm 2020. Đây là tỷ trọng thông thường đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt nam.

Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2020 chậm lại (2.91%) so với giai đoạn trước đây trung bình trên 6.5% ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ tăng tưởng ngành dầu nhớt, bắt đầu chu kỳ từ năm 2020 cho đến sau này.

Việt nam đẩy mạnh các dự án đầu tư công trong xây dựng, hạ tầng và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực năng lượng, chế biến… Song song đó, Việt nam cũng có các chính sách về hỗ trợ các lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô, linh kiện,… trong ưu đãi về thuế quan; cùng với các chính sách khác hỗ trợ doanh nghiệp duy trì nền sản xuất nội địa và xuất khẩu. Các chính sách này tuy còn ít nhưng phần nào cho thấy muốn duy trì được nền kinh tế tăng trưởng dương (+) thì chính phủ cần có sự quan tâm đến bối cảnh kinh tế và xã hội bị tác động suy thoái khủng khiếp do đại dịch Covid-19 gây ra trên toàn thế giới, cụ thể là tại Việt nam.

Có thể ca ngợi cách chống dịch Covid-19 của Việt nam hiệu quả và ít chi phí cũng như mất mát, tuy nhiên, cũng có những tổn thất về kinh tế nhất định ảnh hưởng sâu nặng đến từng doanh nghiệp và từng người dân lao động (trừ người lĩnh lương nhà nước), nhất là bắt đầu Quý 2/2020 cho đến hết Quý 3/2020. Ảnh hưởng nặng nhất là đối với ngành vận tải và du lịch.

Phân khúc vận tải nặng ảnh hưởng nhiều qua tác động của các đợt giãn cách xã hội trong năm, nhất là hoạt động vận chuyển hành khách đường bộ, đường thủy (ESKA không quan tâm đến đường hàng không và đường sắt). Như đã đề cập, lượng hàng hóa nội địa, hành khách trong năm 2020 giảm 20%; mặc dù vận chuyển quốc tế có tăng trưởng đáng kể qua các cảng biển, nhưng không thể bù đắp lượng suy giảm vận chuyển đường bộ nội địa và quốc tế (Trung quốc, ASEAN).

Các sắc luật của Việt nam ký kết với các quốc gia có vùng biển chồng lấn như Malaysia, Indonesia,..và việc bị gắn “thẻ vàng” về nguồn gốc thủy hải sản khai thác của Châu Âu (EC) đối với  Việt nam đã ảnh hưởng đến lượng tàu đánh bắt xa bờ dọc các vùng duyên hải. Số lượng tàu khai thác thủy hải sản tại các vùng biển phía nam giáp ranh trước đây tập trung từ Bình Định cho đến Kiên Giang, nay phải tuân thủ bắt buộc theo dõi, giám sát và kiểm soát hoạt động. Trong năm qua, Việt nam đã mạnh tay trong xử lý vi phạm này cùng với các quốc gia láng giềng như Malaysia và Indonesia: bắt, thiêu hủy tàu, phạt tiền tàu không có đinh vị, v.v.. Lượng dầu nhớt phục vụ cho ngành đánh bắt giảm đáng kể khi khu vực phía nam từ BR-VT cho đến Kiên Giang lượng tàu đánh bắt hiệu quả giảm khoảng 60%, trong đó chỉ còn khoảng 30% là hoạt động thường xuyên…

Thêm vào đó, lượng “tàu lạ” đàn áp khu vực vùng biển Đông với ngư trường lớn Hoàng Sa, Trường Sa cùng với các đợt “cấm biển” của Trung quốc làm ảnh hưởng đến sản lượng đánh bắt của các đội tàu thuộc Vịnh Bắc Bộ kéo dài xuống tận Bình Định – Phú Yên. Đội tàu Việt nam khai thác vùng biển này cũng giảm đáng kể, nhất là khu vực Quảng Ngãi, Bình Định.

Biển Việt nam bây giờ không còn là biển bạc. Biển vẫn là những con sóng ấy nối đuôi nhau…”bạc đầu”. Biển vắng những đàn cá trích, cá mòi, cá chuồn…phóng rào rào, giật mình khi con tàu lướt ra khơi như trước đây. Mùa gió chướng, giàn lưới giã cào bị sóng vỗ ngang, “chiếc đực” rú ga cuộn khói, chồm lên…Tâm lẩm bẩm:”Bảy cặp ghe giờ còn cặp này chiến nhất mà biển giã như vậy thì chắc ra Hòn trốn quá…!” Tâm mất 2 cặp ở Mã lai, bán 3 cặp vì ngân hàng không cho đáo hạn, giờ an phận với cặp ghe để cào…nát Vịnh Thái lan. Hai vợ chồng mới chia tay, chia đôi luôn 2 cặp ghe còn lại…

Thị trường tiềm năng để phát triển ngành ô tô

Theo quan sát của ESKA, tất cả những quốc gia trên thế giới trở thành nước công nghiệp phát triển đều có ngành công nghiệp ô tô phát triển và ngược lại. Tuy nhiên, các quốc gia phát triển không nhất thiết cần nền công nghiệp ô tô phát triển. Việt nam đều không nằm trong 2 trường hợp đó. Việt nam là đất nước đang phát triển cho nên tất cả đi lên bằng bước khởi đầu… sơ khai. Thế nhưng bước khởi đầu của Việt nam hoạch định cho ngành công nghiệp ô tô đã có cách đây 20 năm với rất nhiều chính sách …thay đổi. Cuối cùng, cho đến bây giờ Việt nam vẫn là một nước có nền công nghiệp ô tô mới…khởi đầu.

Điều an ủi cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp ô tô và dầu nhớt phục vụ cho ngành là dung lượng thị trường cho phát triển ô tô còn tiềm năng lớn. Với bình quân 23 xe/ 1.000 dân thì với dân số trên 100 triệu, và mức sống người dân ngày một nâng cao  thì thị trường ô tô vẫn hấp dẫn. Nhưng, vẫn còn nhiều rào cản… Đó là lượng xe máy khổng lồ níu “bánh” ô tô, không thể hoạch định phát triển ô tô được với lượng xe máy chiếm gần như 70% đường phố nội thị, trong khi hạ tầng không thể phát triển thêm do nhiều…nhiều lý do! Đó là chính sách thiếu nhất quán: nên siết ô tô hay nên thả lỏng để phát triển ô tô? Và tất cả chính sách đó, dự định đó, kế hoạch đó đều để cho …tương lai giải quyết!

Có một điều ai cũng nhắc đến hoặc đã nghe qua: tương lai ô tô không là loại động cơ đốt trong nữa. Cho nên có lẽ Việt nam cũng sẽ “đi tắt đón đầu” như nhiều ngành khác là sẽ khuyến khích phát triển ô tô điện. Nhưng có lẽ tương lai còn xa!…nên Việt nam sẽ khuyến khích làm xe máy điện trước. Năm 2020, có khoảng 100 ngàn xe máy điện được bán ra tại Việt nam.

Dầu nhớt cho phân khúc ô tô và tải nhẹ tại thị trường Việt nam có sự cạnh tranh khốc liệt nhất về giá. Đây là phân khúc tiềm năng và phát triển đều đặn trong nhiều năm qua nên tất cả các “Anh Tài” đều tập trung hình ảnh và thương hiệu trong phân khúc này. Có một nhận xét rất sâu sắc từ Minh Dũng- NPP MX1 – Singapore tại Đà nẵng rằng:” Hiện tại làm thương hiệu cho xe máy là đã lạc hậu, hiện tại là làm thương hiệu cho phân khúc ô tô! ” Đúng vậy! Các thương hiệu dầu nhớt có tiềm lực mới dũng cảm làm thương hiệu và sản phẩm cho ô tô. Đây là phân khúc có lợi nhuận tốt khi khách hàng chấp nhận. Phân khúc này “không có cửa” cho sản phẩm “tay mơ”

2020, Năm bắt đầu thoái trào của xe máy (MCO)

Hơn 60 triệu xe máy đang lưu hành tại Việt nam, tất nhiên trong số đó một số đáng kể xe đã cũ nát hết lưu hành hay vì lý do khác mà không lưu hành. Việt nam hiện đứng thứ 4 trên thế giới về lượng xe máy lưu thông, sau Trung quốc, Ấn đô và Indonesia.

Sau nhiều năm tăng liên tục về sản lượng xe máy bán ra, năm 2020, lượng xe máy đăng ký giảm khoảng 10% xe với năm 2019, tương đương 300 ngàn xe. Nhận xét chung của tất cả mọi người trong ngành là do đại dịch Covid-19, thế nhưng, theo ESKA thì xe máy không còn gì thú vị đối với mọi người nữa. Có nhiều điều thuận lợi từ xe máy, cũng nhiều bất lợi từ xe máy… Nhưng xe máy mang đến nhiều hệ lụy cho sự phát triển của đất nước nhất là trong điều hành từ chính sách cho đến hoạch định kế hoạch an sinh xã hội cho người dân. Xe máy có thể là cứu cánh trên hành trình phát triển từ một đất nước nghèo đến đất nước thoát nghèo; nhưng sẽ là tội đồ khi đất nước đang phát triển đến một  nước văn minh (ESKA không đề cập đến nền văn minh XHCN).

Có thể bắt đầu năm 2020 trở về sau, lượng xe máy càng ngày sẽ càng tụt giảm và dầu nhớt cho phân khúc này cũng vậy. Kịch bản hay nhất có thể nghĩ đến là sự suy thoái trong vòng 10% sau mỗi năm và lượng xe máy lưu hành giảm đáng kể trong vòng 5 năm tới khi các Thành phố lớn triển khai kiểm soát khí thải từ xe máy và dừng lưu hành xe không đạt chuẩn.

Thế thì động lực nào để duy trì xe máy? Đó là sự chuyển đổi từ xe cũ sang xe tốt hơn khi mức thu nhập của người dân cao hơn. Chuyển đổi từ xe có dung tích nhỏ hơn sang xe có dung tích lớn hơn, hay từ xe truyền động số sang xe ga chẳng hạn. Mức chuyển đổi này tương đối còn cao là động lực duy trì thị trường cho xe máy với nhiều loại xe và mẫu mã ngày càng nhiều.

Theo xu hướng đó, dầu nhớt xe máy (MCO) vẫn được duy trì doanh số tốt trong những năm sau nhưng sẽ có sự thoái trào và thị trường khắc khe hơn, cân nhất nhiều hơn khi chọn thương hiệu. Chất lượng dầu nhớt xe máy và mô tô ngày càng cao cấp hơn với nhãn hiệu từ khắp nơi trên thế giới đổ về Việt nam, nhưng chung quy, thị trường vẫn được dẫn dắt bởi các hãng lớn như Honda, Yamalube, Castrol,…

Khi nhận thức về sản phẩm dầu nhớt xe máy và mô tô (MCO) của người sử dụng ngày càng hiểu biết, thì thị trường chấp nhận sự cân bằng về chất lượng và mức giá, có nghĩa là “chất lượng tốt sẽ có giá cao” chứ không phải như hiện tại “thương hiệu tốt sẽ có giá cao” trong kinh doanh. Đó là nhận xét của ESKA khi mang sản phẩm đến người tiêu dùng và loại bỏ bớt các bước trung gian.

(…còn tiếp)

Ngày 22/2/2021, …phải nằm nhà 5 ngày vì té xe máy. Xu cà na!

Theo ESKA, Made in Singapore

Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân.

(Xin lỗi người đọc vì bài viết có vài chỗ quảng cáo!)

Báo cáo thị trường nguyên liệu Dầu gốc tháng 2 tại Châu Á.

0

Thị trường dầu gốc (base oil) bị kìm hãm bởi những lo ngại mới về sự thắt chặt nguồn cung toàn cầu, có thể trở nên trầm trọng hơn do sự cố mất điện liên quan đến thời tiết ở Hoa kỳ, song song đó, giá nguyên liệu sản xuất tăng dựng đứng càng góp phần tăng “ổn định” đối với dầu gốc giao ngay. Các dấu hiệu giá dầu gốc sẽ tiếp tục tăng trong nửa cuối tháng 2/2021 càng chắc chắn hơn.

Các điều kiện thắt chặt nguồn cung dầu gốc trên thị trường được quan sát thấy trên toàn thế giới kể từ quý IV năm 2020 là kết quả của việc giảm hoạt động tại một số nhà máy lọc dầu do đại dịch Coronavirus gây ra, cùng với nhu cầu tăng trưởng ổn định, và ngừng sản xuất theo kế hoạch và không có kế hoạch (bất khả kháng).

Tuần trước, bão tuyết bất thường tại Texas, Hoa kỳ, là nguyên nhân của sự cố mất điện đã uy hiếp các nhà máy bao gồm Motiva, ExxonMobil phải ngừng hoạt động. Mức cung tại chỗ ở Mỹ đã khá thấp và những gián đoạn sản lượng này có thể sẽ làm trầm trọng thêm tình hình. Các tiểu bang khác cũng chứng kiến nhiệt độ dưới 0oC gây gián đoạn giao thông và chậm trễ vận chuyển. Hoa Kỳ là một nguồn hàng hóa xuất khẩu tại chỗ đáng kể, đặc biệt là dầu gốc Nhóm II, thường đến Ấn Độ, Singapore và các điểm đến châu Á khác.

Tuy nhiên, dầu gốc sẵn có đã trở nên hiếm khi các nhà sản xuất Hoa Kỳ đang tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu trong nước, trong khi việc giảm sản lượng liên tục các nhà máy sản xuất dầu gốc nhóm I, Nhóm II và Nhóm III theo kế hoạch ở châu Á đã hạn chế lượng cung vào thị trường giao ngay bởi các nhà sản xuất trong khu vực. Châu Âu cũng có rất ít chỗ để cung cấp, ngoại trừ có lẽ là Nga.

Nhà máy API Group I lớn ở Singapore (ExxonMobil) đã bị đóng cửa kể từ tháng 6 năm 2020 và không có cập nhật nào về thời điểm có thể được khởi động lại, với các báo cáo hiện tại, khả năng có thể vẫn ngừng vô thời hạn. Hãng này đã nhập khẩu dầu gốc  từ các nhà máy khác của mình ở Mỹ và châu Âu để cung cấp cho các nhà máy dầu nhờn của mình ở châu Á, do đó hạn chế lượng dầu gốc bán trên thị trường giao ngay.

Giá dầu gốc BS (Bright Stock) tăng lên mức cao nhất trong 10 năm qua, do lượng hàng thiếu hụt trầm trọng, cộng với sự cạnh tranh gay gắt cung cấp cho thị trường Trung quốc, Ấn Độ và Singapore của thương nhân.

Tại Nhật Bản, một nhà sản xuất Dầu gốc Nhóm I đã chuẩn bị mở rộng nhà máy có khả năng kéo dài trong bốn tháng kể từ cuối tháng 2, thêm vào sự thắt chặt trong khu vực về nguồn cung dầu gốc Nhóm I.

Tại Thái Lan, một nhà máy Nhóm I cũng sẽ trải qua một chương trình bảo trì vào tháng 3 và nhà sản xuất dự kiến sẽ không có sản phẩm trong tháng.

S-Oil và SK sản xuất Dầu gốc Nhóm II và III của Hàn Quốc sẽ khởi động nhà máy sau thời gian bảo dưỡng vào tháng 3 và được dự đoán sẽ đáp ứng Dầu gốc cho các hợp đồng kỳ hạn, nhưng không bán hàng hóa giao ngay.

Một nhà máy lọc dầu lớn của Singapore đã thông báo tăng giá lần thứ hai kể từ đầu tháng. Theo báo cáo, nhà sản xuất này đã tăng giá SN150 70 USD/tấn, SN 500 tăng  230USD /tấn và BS tăng 180 USD/tấn  tính đến ngày 11 tháng 2.

Giá 500N Nhóm II của nhà sản xuất này đã tăng 110 USD/tấn.

Về dầu thô, giá dầu đã tăng vào thứ Năm để đạt mức cao nhất trong 13 tháng do lo ngại rằng nhiệt độ dưới 0oC bất thường ở Texas và điều kiện đóng băng dẫn đến việc đóng cửa nhà máy lọc dầu sẽ làm gián đoạn sản lượng dầu thô của Mỹ trong một thời gian dài, thúc đẩy mua thêm trên thị trường hàng hóa.

Vào thứ Năm, ngày 18 tháng 2, hợp đồng tương lai tháng 4 của Brent được giao dịch ở mức 64,59 USD mỗi thùng, từ mức 61,17 USD /thùng vào ngày 11 tháng 2 trên sàn giao dịch ICE Futures Europe có trụ sở tại London.

Tại Việt nam, Shell, Motul, Chevron,….và nhiều hãng dầu nhớt khác đã phát thông báo tăng giá lần thứ 2 trong vòng chưa đầy 1 tháng.

Thị trường dầu nhớt Việt nam thật sự rơi vào…lo ngại.!Theo Lube Asia, Baseoil Report, Feb, 18th, lược dịch bởi ESKA Singapore

Ngành công nghiệp dầu nhớt Việt Nam: năm Covid-19 lần thứ nhất (P2): Dầu nhớt cho ngành vận tải

0

Phân khúc HDEO (vận tải hàng hóa và hành khách)

Hoạt động dịch vụ vận tải trong năm 2020 chịu tác động nặng nề nhất, trước hết là vận tải hàng không, đường sắt và đường bộ. Theo VLA (Sách trắng 2018), 78,2% doanh nghiệp logistics Việt Nam cung cấp dịch vụ vận tải nội địa, 67,3% dịch vụ vận tải quốc tế. Khoảng 75% doanh nghiệp đang cung cấp dịch vụ logistics hàng xuất khẩu và gần 82% hàng nhập khẩu của Việt Nam với thị trường Trung Quốc. Vận tải quá cảnh hàng hóa Trung Quốc và các nước ASEAN đều giảm khoảng trên 20%. Mức tăng trưởng của hoạt động vận tải nói chung trong năm 2020 dự kiến thấp hơn so với 2019.

Vận tải hàng hóa đường bộ

Chi phí vận tải, nhất là đường bộ còn cao, mặc dù giá xăng dầu có giảm, do lượng hàng thuê chở giảm. Chi phí vận tải hàng hóa bằng đường bộ còn cao do khoảng 70%-75%, xe vận chuyển chỉ có hàng hóa một chiều và chi phí cầu đường, chi phí không chính thức vẫn còn ở mức cao.

Khối lượng hàng hóa vận tải qua biên giới giảm mạnh, phải cách ly lái xe, hoặc đổi lái xe, đổi đầu kéo là những khó khăn rất lớn cho dịch vụ vận tải đường bộ. Vận tải nội địa gặp nhiều khó khăn do giãn cách xã hội trong tháng 4/2020 khi thực hiện Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19. Khoảng 50-60% doanh nghiệp vận tải đường bộ giảm hoạt động và doanh thu trong thời gian đỉnh dịch.

Theo thống kê, năm 2020, do tác động của dịch Covid-19 nên số lượng các doanh nghiệp vận tải đường bộ và phương tiện không tăng so với 2019 số phương tiện xe tải các loại khoảng 202.765 xe, trong đó có 47.878 xe container, 8.291 xe đầu kéo và 146.596 xe tải.(*)

Vận tải tàu biển và thủy nội bộ

Sau khi liên tục sụt giảm trong 4 tháng đầu năm, vận tải hàng hóa bằng đường biển bắt đầu tăng trở lại từ tháng 5/2020 và có sự tăng trưởng khá tốt vào cuối quý II/2020 khi các đợt dịch bệnh lắng xuống. Tổng sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển trong 9 tháng năm 2020 đạt gần 519 triệu tấn. Đối với vận tải thủy nội bộ cũng vậy, tăng trưởng tốt từ tháng 5 cho đến cuối năm, tuy nhiên vận tải thủy nội bộ cũng giảm 7,6% so với cùng kỳ năm 2019.

So với các loại hình dịch vụ vận tải khác, dịch vụ vận tải biển ít bị tác động của dịch Covid-19 hơn vì lượng hàng luân chuyển qua các cảng phục vụ chủ yếu cho hoạt động xuất-nhập khẩu.

Sau 4 năm mở tuyến ven biển, tính đến năm 2020, có tổng số 1.786 phương tiện mang cấp VR-SB (tàu pha sông –biển), đang hoạt động, trong đó phương tiện chở hàng 839 chiếc, chiếm 0,5% so với phương tiện thủy nội địa. Tổng số phương tiện vận chuyển thủy nội bộ chở hàng là 167,800 chiếc được đăng kiểm.(*)

Theo số liệu thống kê của Diễn đàn Thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD), đội tàu biển Việt Nam đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN (sau Singapore, Indonesia, Malaysia) và thứ 30 trên thế giới. Trong đó, số luợng tàu hàng rời, tổng hợp có 757 tàu, tàu chở dầu, hóa chất có 159 tàu, tàu chuyên dụng khí hóa lỏng có 19, đội tàu container có 38 tàu, tàu chở khách có 65 tàu, đội tàu vận tải. Tổng tàu biển hoạt động là 1,038 chiếc. (*)

Hình 1: Đội tàu vận chuyển đường biển

Tuy nhiên, vẫn còn khoảng 40% đội tàu Việt Nam phải sửa chữa ở các cơ sở công nghiệp tàu thủy nuớc ngoài. Do chưa được bổ sung về vốn, hạ tầng cơ sở và thiết bị của doanh nghiệp đóng tàu nên chưa thể thực hiện chiến luợc phát triển ngành công nghiệp đóng tàu với các mục tiêu của quy hoạch; chưa cạnh tranh đuợc với các nuớc trong khu vực ASEAN và Châu Á – Thái Bình Dương. Có nghĩa là một lượng lớn dầu nhớt được cấp từ các cơ sở sửa chữa từ nước ngoài.

Vận chuyển hành khách

Tính chung năm 2020, vận tải hành khách đạt 3.561,9 triệu lượt khách vận chuyển, giảm 29,6% so với năm trước (năm 2019 tăng 11%). Xu hướng vận chuyển hành khách tăng mạnh bằng đường hàng không, đường bộ giảm, và một phần lựa chọn sử dụng phương tiện cá nhân như ô tô và xe máy.

Trong 9 tháng năm 2020, số lượng hành khách vận chuyển bằng đường hàng không chỉ đạt 22,5 triệu lượt khách, giảm 45,5%. Cả năm vận chuyển hành khách bằng đường hàng không khoảng 32 triệu lượt.  Trong khi đó, lượt khách lên tàu (đường sắt) trong năm tương đương 12 triệu lượt. Tính chung, vận chuyển hành khách bằng đường bộ vẫn mang tính chủ đạo như trước đây.

Cho đến tháng 11/2020, cả nước có tổng cộng hơn 233 ngàn tàu sông/biển vận chuyển hành khách. Và hơn 4,2 triệu ô tô đang lưu hành bao gồm xe tải, xe khách và ô tô cá nhân… (Theo cục đăng kiểm Việt nam)

Nguồn: Cục đăng kiểm VN và (*)

Trong phân khúc vận chuyển bằng đường hàng không và đường sắt, ESKA không khảo sát vì đây là thị trường gần như độc quyền, không có tính cạnh tranh vì chỉ tập trung vào vài ba doanh nghiệp được chi phối. Phân khúc dầu nhớt cho ngành này cũng gần như bó hẹp trong phạm vi sản lượng tiêu thụ khoảng 1,000 Tấn/năm.

Thị trường dầu nhớt cho phân khúc vận tải HDEO

Lượng tiêu thụ dầu nhớt HDEO cho phân khúc tàu thủy chiếm lượng lớn trong phân khúc vận tải, tập trung tại các thành phố với các tuyến lưu thông thủy có cảng nội địa và cảng biển. Phân khúc dùng cho tàu thuyền đánh cá tiêu thụ lớn tại phía Nam với các ngư trường/ vùng biển phía đông (Hoàng sa, Trường sa) nước ta và vịnh Thái lan, cũng như vùng biển giáp ranh Malaysia/Indonesia từ vĩ tuyến 6-80.

Một số nhãn hiệu lớn như Castrol, tập trung đều trên khắp cả nước. Shell được ưa chuộng tại các khu vực cảng dọc ven biển phía nam, đứt gãy hệ thống phân phối từ phía Bắc cho đến miền Trung. Total tập trung chính một vài vùng trọng điểm nhưng yếu ớt. Đa phần còn lại là sự chia sẽ từ nhiều nhãn hiệu khác nhau, cả sản xuất nội địa trong nước cũng như nhập khẩu. Tuy nhiên đây không phải là sân chơi cho các nhãn hiệu nhỏ pha chế trong nước vì chất lượng không đáp ứng yêu cầu.

Lượng tiêu thụ dầu nhớt HDEO cho phân khúc vận tải hành khách cũng giảm tương đương 20% so với năm 2019. Tổng sản lượng tiêu thụ dầu nhớt được ước tính: 91 ngàn tấn (theo khảo sát ESKA), một phần thực hiện giãn cách xã hội trong năm và nhu cầu sử dụng xe khách vận chuyển liên tỉnh giảm, thêm vào đó nhu cầu dịch chuyển bằng phương tiện cá nhân tăng cao như đã đề cập.

Hình 3: Cấp chất lượng theo API tại Việt Nam, phân khúc HDEO, theo khảo sát ESKA

Đây là phân khúc có sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các nhãn hiệu lớn, cho đến các nhãn hiệu nhỏ cũng như dầu nhớt nhập khẩu. Nhìn chung, đây là phân khúc tương đối dễ cạnh tranh vì dầu động cơ cho phân khúc này dễ sản xuất từ bình dân cho đến cao cấp, tuy nhiên, chất lượng thì tốt thật là tốt nhưng xấu thì cũng thật là xấu, tùy quan điểm và năng lực của nhà sản xuất.

(Còn tiếp…)

Theo ESKA Singapore, Made in Singapore

21.1.2020, còn 17 ngày nữa là Tết.

Trong bài có sử dụng tư liệu, số liệu: ”Báo cáo Logistic Việt nam 2020(*)– Bộ Công Thương”; “Thống kê kinh tế xã hội Việt nam 2020- TCTK”, số liệu Cục Đăng Kiểm Việt nam.