028 6258 8193 - 028 6258 8195

eska.hainguyen@gmail.com

201 Nguyễn Xí, P. 26, Q. Bình Thạnh, TPHCM

Trang chủ Blog Trang 12

Báo cáo thị trường dầu nhớt Việt nam- Bài 14: 2022, ngoại truyện!

0

Trong loạt bài viết “Báo cáo thị trường dầu nhớt Việt nam, năm 2020” đã được thực hiện dựa trên nghiên cứu của IHS Markit, phát hành tháng 12/2021, cho đến khi Eska báo cáo lại đến bạn đọc thì đã là hết năm 2022. Cho nên, độ trễ của thời gian gần 2 năm, cộng thêm diễn biến thay đổi của thị trường diễn ra hàng ngày, báo cáo không phản ánh toàn cảnh bức tranh hiện tại của một thị trường dầu nhớt sôi động có giá trị gần 2 tỷ USD của Việt nam.

Trong bài viết này, ESKA sẽ đánh giá lại những quan điểm, nhận xét của lĩnh vực dầu nhớt dựa trên bối cảnh nền kinh tế Việt nam trong năm 2022 như là một hiệu đính để sáng tỏ hơn những số liệu cũ chân thực của IHS Markit nhưng cách diễn giải của một nghiên cứu không thể “bình dân” hoá cảm nhận tính “thị trường” cạnh tranh có đan xen nhiều điểm sáng và các khoảng tối.

Kinh tế Việt nam, năm 2022.

Theo báo cáo mới nhất của Tổng cục Thống kê, ước tính GDP năm 2022 tăng 8,02%, so với năm trước do nền kinh tế được khôi phục trở lại và đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022.

Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,36%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,78%, dịch vụ tăng 9,99%, và ngành nông nghiệp tăng 2,88%.

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 8,10%. Riêng ngành vận tải, kho bãi tăng 11,93%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế.

GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD

Thế nhưng, GDP quý IV/2022 ước tính tăng 5,92% so với cùng kỳ năm trước, tuy cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2020 và 2021 nhưng thấp hơn tốc độ tăng của quý IV các năm 2011-2019, báo hiệu khó khăn của nền kinh tế trong tương lai gần…

Mùa đông ngoại thành Hà nội, ảnh của NatGeo.

Chỉ số sản xuất, công nghiệp (IIP) tăng chậm.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý rồi tăng 3%, mức tăng thấp nhất so với các quý của năm 2022 do đơn hàng sụt giảm, chi phí đầu vào cao và thiếu hụt nguồn cung nguyên vật liệu. Thêm vào đó, ngân hàng nhà nước siết chặt tín dụng, vốn giải ngân vào doanh nghiệp sản xuất khó khăn gây hệ quả dòng tiền không thông suốt ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp liên quan.

Sự khó khăn thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực xây dựng và bất động sản, vốn là ngành mang lại nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt nam.

Lạm phát và lãi suất phủ bóng lên nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước Việt nam tăng lãi suất điều hành liên tục trong năm, đẩy các ngân hàng thương mại vào cuộc đua tăng lãi suất huy động làm lãi suất cho vay doanh nghiệp tăng cao. Mức lãi suất cao không khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất vì chứa đựng nhiều rủi ro kinh doanh mà khuyến khích doanh nghiệp gởi tiền vào ngân hàng làm đình đốn sản xuất. Việt nam là một trong số các quốc gia có lãi suất cao nhất thế giới xét về mức độ mở cửa của nền kinh tế với thị trường bên ngoài, không tính các quốc gia có “độ kín/cực đoan”.

Nguyên nhân là do Việt nam phải kiềm chế lạm phát đang tăng cao trên phạm vi toàn thế giới khi mà các bất ổn về chính trị – kinh tế đang đẩy toàn cầu vào bờ vực suy thoái tương tự như giai đoạn 2008-2010. Tại Việt nam, lạm phát ảnh hưởng do hàng hoá, nguyên vật liệu nhập khẩu, chênh lệch tỷ giá do đồng USD tăng…trong khi đó, lượng cung tiền của Việt nam thấp đã dẫn đến chỉ số CPI được kiểm soát cả năm đâu đó khoảng 3%. Theo Tổng cục Thống kê là một thành công!.

Đời sống người dân cảm nhận ngày một khó khăn hơn vì chi phí sinh hoạt trực tiếp tăng rất cao. CPI thấp không hẳn là mức lạm phát trong xã hội thấp vì nó chỉ phản ảnh giá trong rổ giá tính toán của bên thống kê. Cuộc sống bên ngoài đó…khắc nghiệt hơn nhiều!

Triển vọng tăng trưởng thấp.

“Việc lạm phát vẫn ở mức cao và lãi suất tiếp tục gia tăng sẽ ảnh hưởng lớn đến đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Những yếu tố này sẽ dẫn đến sụt giảm trong cả đầu tư, tiêu dùng cũng như thị trường nhà ở. Các thị trường cổ phiếu và trái phiếu cũng bị ảnh hưởng, từ đó sẽ ảnh hưởng đến sự thịnh vượng chung” (Theo TBKTSG,29/12/2022). Kinh tế sẽ tăng chậm lại tại tất cả các khu vực trên thế giới. Việt nam phụ thuộc rất lớn vào tỷ trọng xuất khẩu trong khi các đơn hàng ngày một kém hơn, thấy rõ là sụt giảm bắt đầu từ Quý 2/2022…thì khó khăn trong năm 2023 là điều hiển hiện trước mắt.

Tình trạng nhiều doanh nghiệp bị thiếu, cắt giảm đơn hàng, dẫn đến nhiều người lao động bị giảm giờ làm, mất việc làm trong thời gian gần đây đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc làm, thu nhập, đời sống của người lao động. Báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thống kê đến cuối tháng 11 cũng cho thấy, đã có hơn 1.200 doanh nghiệp tại 44 tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng sản xuất, kinh doanh phải cắt giảm lao động.

Số lao động trong các doanh nghiệp bị ảnh hưởng tới việc làm là trên 472.000 lao động, chiếm 64,54% tổng số lao động tại các doanh nghiệp. Các ngành có số lao động bị ảnh hưởng nhiều là dệt may, gia dày, chế biến gỗ, điện tử, cơ khí… thuộc nhiều trong cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài gia công (FDI).

Điểm sáng, 2022.

Năm 2022, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt nam đạt 732,5 Tỷ USD, đạt kỷ lục và chỉ đứng sau Singapore trong khối ASEAN. Tính chung cả năm 2022, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 11,2 tỷ USD, giảm áp lực một phần lên tỷ giá VNĐ/USD cho năm 2023, tuy nhiên thặng dư USD có thể nằm đâu đó trong tài khoản của doanh nghiệp FDI vì có đến 74,4% tỷ trọng xuất khẩu thuộc về các doanh nghiệp này.

Thu ngân sách Nhà nước (NSNN) đạt 1.691,8 nghìn tỷ đồng, vượt 19,8% so dự toán so với số đánh giá thực hiện cả năm. Thu ngân sách Trung ương vượt 19,3%, thu ngân sách địa phương vượt 20,4%. Nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn từ đất đai, thuế thu nhập cá nhân,… Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công chỉ khoảng 53%, trong khi đó ngân sách vẫn bội chi 4% GDP.

Thời tiết năm nay…lạnh hơn!

…còn tiếp.

Theo ESKA Singapore, tổng hợp. 1/1/2023

Báo cáo thị trường dầu nhớt Việt nam năm 2020- Bài 13: Các thương hiệu chính.

0

Shell – Thương hiệu mạnh xuyên suốt tất cả phân khúc từ tiêu dùng, thương mại và công nghiệp.

Shell vươn lên vị trí thứ 2 chỉ sau BP-Castrol ở Việt nam, với sản lượng khoảng 31 kT (ngàn tấn) và thị phần tương đương 7% năm 2020.

Shell cung cấp cho thị trường nội địa với gần như toàn bộ công suất của nhà máy 30 kT/năm được vận hành năm 2001, trị giá 11 triệu USD lúc đó.Trước đây nhà máy cũng pha chế cho một số OEMs như Honda (MCO), Hyundai (HDEO) vào năm 2019. Một số sản phẩm công nghiệp đặc biệt, mỡ, dầu động cơ Shell cũng nhập khẩu với số lượng 3.3 kT năm 2020.

Shell có sản lượng đa số trong phân khúc vận tải (MCO và HDEO), các sản phẩm này chiếm 30% và 35% tính tương đối theo thứ tự trên. Trong khi đó chỉ riêng dầu thuỷ lực đã chiếm 16%, các loại dầu công nghiệp khác và PCMO chiếm % còn lại.

Trong phân khúc MCO, Shell thách thức sự thống trị của Castrol với thế mạnh không kém về các sản phẩm cao cấp bán tổng hợp và tổng hợp toàn phần như Shell Advance 4T AX7, Scooter AX7…cùng mối quan hệ với Ducati, BMW và Honda.

Trong phân khúc vận tải thương mại, các nổ lực marketing Shell tập trung vào dòng sản phẩm Rimula cho tải nặng và các sản phẩm cao cấp Helix Ultra 0W40 đối với ô tô.

Shell chiếm 6% thị phần trong phân khúc dầu công nghiệp, trở thành nhà cung cấp hàng đầu trong dầu công nghiệp và dầu biến thế ở Việt nam (?). (Có thể Shell công bố một số hợp đồng hợp tác với một số thành viên, cty con của EVN năm 2019)

Bên cạnh mảng dầu động cơ, các sản phẩm về công nghiệp như Shell Telus và mỡ Shell Radus khá nổi tiếng tại việt nam. Shell đang thúc đẩy mảng dầu công nghiệp đặc biệt ở các địa phương xung quanh Tp HCM như Bình Dương, Long An, Đồng Nai…

Shell vẫn duy trì truyền thống với cách phân phối phụ thuộc và Npp địa phương. Tuy nhiên Shell thu hẹp lại hệ thống “ tier one” – đội 1, từ 30-40 npp của thập kỷ trước chỉ còn lại khoảng 20-30 npp.

TotalEnergies – Mở rộng hệ thống Total Moto Zone với mục đích tăng thị phần phân khúc MCO.

Tập đoàn của Pháp, TotalEnergies ( trước đây là Total) tiếp tục phát triển mở rộng thị phần tại Việt nam, có sự tăng trưởng vượt bậc sau khi mua lại hạ tầng ExxonMobil năm 2009.

Năm 2020, TotalEnergies tiêu thụ 18 kT (ngàn tấn) chiếm thị phần 4% tại Việt nam.

Sản lượng trong pha chế OEMs phân khúc Automotive và MCO của Total đã chiếm 20% lượng bán ra. Total cung cấp PCMO cho Nissan, Trường Hải Auto,Peugeot và cả Military VN.

TotalEnergies cung cấp cho thị trường qua nhà máy tại Đồng nai, có công suất mở rộng 25 kT/năm và cả nhập khẩu các sản phẩm nhu dầu động cơ, mỡ bôi trơn, dầu gia công kim loại và các sản phẩm công nghiệp khác… Ước tính nhập khẩu khoảng 3 kT, cho năm 2020.

Trong phân khúc MCO, sản phẩm Total Hi Perf 4T chiếm 70% doanh số tổng MCO tại Việt nam của Total

Cùng với việc xây dựng hệ thống phân phối trên toàn quốc, TotalEnergies cũng xây dựng nhận diện thương hiệu thông qua hệ thống Total Moto Zone để phát triển phân khúc MCO. Mô hình Total Moto Zone của TotalEnergies rất chuyên nghiệp từ khâu đầu tư, đào tạo và tư vấn sử dụng sản phẩm đến người tiêu dùng. Năm 2021, TotalEnergies đã xây dựng 110 điểm trong cả nước.

Total là thương hiệu hàng đầu trong dầu hàng hải với các sản phẩm Aurelia cho máy phát, Disola và Atlanta cho dầu máy tàu.

ESKA Singapore, 19/12/2022

Trong phần này, ESKA dịch một cách trung thực nhất theo kiến thức của ESKA trong ngành và KHÔNG chèn quan điểm cá nhân vào bài viết.

Báo cáo thị trường dầu nhớt Việt nam năm 2020- Bài 12: Các thương hiệu chính.

0

MoTul – Vị trí “khiêm tốn” trong thị trường nhưng tập trung mạnh ở phân khúc vận tải.

Tháng 3/2009, tập đoàn của Pháp – Motul mua lại 100% công ty Vilube, một trong những thương hiệu có lịch sử trong ngành dầu nhớt ở Việt nam. Thương hiệu Vilube vẫn còn giữ cho đến ngày nay và hoạt động chung với cùng trụ sở tại Tp HCM.

Năm 2020, Motul bán ra 12 kT (ngàn tấn), kết thúc với thị phần khoảng 3%, trong đó phân khúc dầu nhớt cho vận tải chiếm 90% trong toàn bộ doanh số. Nhà máy tại Nhà Bè HCMC, có công suất 25 kT/năm chủ yếu sản xuất PCMO và MCO. Motul lấy Việt nam làm trung tâm sản xuất phân phối cho cả thị trường Châu Á bao gồm cả Nhật Bản và Úc.

Năm 2020, Motul xuất khẩu 7.3 kT tương đương 37% công suất nhà máy. Motul trang bị phòng thí nghiệm hiện đại để thực hiện R&D (nghiên cứu & phát triển) phục vụ sản phẩm cho cả Châu Á.

Các nỗ lực marketing tập trung đặc biệt vào các hợp đồng sử dụng trực tiếp đầu tư cho garage, trung tâm dịch vụ, điểm bán lẻ các sản phẩm dầu nhớt cao cấp. Tuy nhiên, Motul cũng xây dựng hệ thống với 65 nhà phân phối, chủ yếu ở khu vực phía nam.

Motul biết khai thác thế mạnh của thương hiệu Vilube trong phân khúc dầu nhớt có giá “tầm trung” với các sản phẩm “đại chúng”, đồng thời nhấn mạnh vào nhận diện quốc tế của thương hiệu Motul với dòng sản phẩm cao cấp của đội ngũ kỹ thuật có tính chuyên gia.

Tuy nhiên, có sự “lấn cấn” khi một sản phẩm nhưng mang 2 thương hiệu: Motul dầu nhớt của sứ mệnh tương lai, và Vilube nhấn mạnh vào sự kế thừa. Sản phẩm mang tính triết lý rõ ràng nhất của định hướng này là Motul – Vilube 3100 Silver đang được định giá ở “tầm trung” để mở rộng thị phần khi khoác lên mình chiếc áo Motul.

Các sản phẩm dầu động cơ cao cấp của Motul tiếp tục gặp thách thức, trong khi các sản phẩm thông dụng của Vilube như Gama, Stello, GL…trở nên sản phẩm bán ra nhiều của nhà máy.

Năm 2018, Motul kỷ niệm 165 năm với việc tung ra sản phẩm Motul 300V2 10W-50 tại Việt nam. Các sản phẩm nổi tiếng khách như 300V Factory 10W40, tổng hợp hoàn toàn rất nổi tiếng tại đây. Motul dựa vào 1 hoặc 2 sản phẩm nổi tiếng để xây dựng thương hiệu dầu nhớt “cao cấp” nhất là trong phân khúc MCO và PCMO.

Petrolimex (PLC) – Đứng đầu trong các thương hiệu nội địa, đang thúc đẩy tăng thị phần các sản phẩm thông dụng.

PLC (Tổng công ty Hóa dầu Petrolimex) là công ty đại chúng (public) trong đó có sự tham gia của Petrolimex (79.07%) cho nên mọi người hay nhầm tưởng đây là công ty dầu nhớt của Petrolimex, trước đây là như vậy, nhưng bản chất PLC hiện nay là công ty liên kết của Petrolimex. Thương hiệu PLC là thương hiệu trước đây khi còn chưa cổ phần hoá, nhãn hiệu dầu nhớt trực thuộc của Petrolimex, được sử dụng cho đến ngày nay.

PLC là nhãn hiệu nội địa lớn nhất tại Việt nam, sản lượng bán ra khoảng 26 kT (ngàn tấn), năm 2020, chiếm 6% thị phần.

Giống như BP-Castrol, PLC cũng đối mặt với thách thức bị chiếm mất thị phần trong nhiều năm qua. Năm 2011, PLC chiếm 15% thị phần tại Việt nam. PLC mất một số hợp đồng quan trọng pha chế OEMs cho một số thương hiệu, kể từ khi có các nhà máy pha chế của Eneos và Idemitsu. Ngoài ra thị hiếu tiêu dùng ngày càng chuộng các thương hiệu quốc tế hay hàng nhập khẩu cũng làm bào mòn thị phần của PLC.

Tổng công suất pha chế của 2 nhà máy tại Nhà bè, HCMC và Hải Phòng của PLC là 25 kT/năm. Dường như cả 2 nhà máy đều sản xuất hết công suất. PLC cũng sản xuất thương hiệu dầu nhớt hàng hải của Total – Lubmarine và xuất khẩu, song song đó một số sản phẩm của PLC được xuất khẩu sang Lào.

PLC là đầu mối nhập khẩu lớn nguyên liệu từ Singapore, Hàn Quốc. Năm 2020, PLC nhập 23 kT nguyên liệu, giảm so với 27 kT năm 2019. PLC cũng nhập khẩu mỡ bôi trơn, dầu biến thế từ Ấn Độ.

PLC. chủ yếu tiếp cận kênh bán lẻ thông qua các trạm dịch vụ ( trạm xăng dầu) của Petrolimex hơn là các nhãn hiệu khác với các điểm sửa xe/ rửa xe độc lập. Thông qua đại diện của Petrolimex từng địa phương đảm nhận phân phối dầu nhớt, PLC không tìm kiếm các nhà phân phối dầu nhớt tại địa phương để phân phối sản phẩm như các nhãn hiệu thông thường.

Với 3,000 đại lý và hơn 2,800 trạm xăng dầu của Petrolimex, PLC cộng sinh khá thành công để dẫn đầu trong mảng dầu nhớt phục vụ cho công trình xây dựng, cơ sở hạ tầng nhất là các công trình có vốn đầu tư công.

PLC vận hành nhà máy xử lý chất thải độc hại lớn nhất Việt nam bao gồm thu gom và chứa dầu nhớt thải và báo cáo trực tiếp cho Bộ TN&MT mỗi 6 tháng.

…còn tiếp.

ESKA Singapore, 19/12/2022

Trong phần này, ESKA dịch một cách trung thực nhất theo kiến thức của ESKA trong ngành và KHÔNG chèn quan điểm cá nhân vào bài viết.

Mỡ bôi trơn Lithium sẽ suy tàn…! Axel dự đoán

0

Axel là một công ty Thụy Điển điều hành các nhà máy sản xuất mỡ bôi trơn ở Thụy Điển, Hà Lan, Pháp và Hoa Kỳ. Thương hiệu rất nổi tiếng trong các nhà sản xuất mỡ bôi trơn.

Một túp mỡ lithium màu xanh lam, chịu nhiệt độ cao, sử dụng cho ô tô. ©HENADZI KlLENT ·
 

Lithium có thể mất vị trí là chất làm đặc phổ biến nhất cho mỡ dùng trong ô tô và công nghiệp vào những năm tới do cạnh tranh ngày càng tăng đối với xe điện và các giải pháp lưu trữ năng lượng mới (pin lưu trữ điện). Thêm vào đó, giá tăng cao và sự gián đoạn nguồn cung đối với các dẫn xuất dầu Castor ( dầu thầu dầu, là một triglyceride trong đó có khoảng 90% axit béo chuỗi là ricinoleates. Axit oleic  axit linoleic là những thành phần quan trọng tạo nên chất làm đặc cho mỡ) – vốn rất cần thiết cho sản xuất mỡ Lithium – cũng đang gây lo ngại cho việc sử dụng các loại mỡ này tại Hội nghị thượng đỉnh dầu gốc và dầu nhờn châu Âu ACI được tổ chức vào ngày 17 tháng 11 năm nay, theo phát biểu của đại diện Axel, Christiernsson.

Thế giới đã sản xuất ước tính khoảng 1.1 triệu tấn mỡ vào năm 2020, theo khảo sát hàng năm của Viện Mỡ bôi trơn Quốc gia Hoa kỳ (NLGI), và 72% trong số đó được làm bằng chất làm đặc gốc xà phòng phức-lithium hoặc lithium. Hầu hết các sản phẩm đó là mỡ bôi trơn đa dụng hoặc cực áp, độ cứng số 2 theo NLGI, được ứng dụng ở các bộ phận quan trọng bằng bôi trơn một cách đơn giản.

” Mỡ bôi trơn lithium thích hợp cho các ứng dụng cơ bản của ô tô và công nghiệp, giá cả phải chăng, có sẵn và chất lượng tốt đối với các ứng dụng tải nhẹ đến trung bình, tốc độ cao đến trung bình,” Giám đốc Hỗ trợ Kỹ thuật của Axel Christiernsson Dennis Eijdenber nói tại hội nghị ACI.

Thị trường mỡ toàn cầu đã phải đối mặt với viễn cảnh thiếu hụt lithium do doanh số bán xe plug-in hybrid (xe lai) tăng và những xe chỉ chạy bằng năng lượng pin (BEV), cùng với cuộc đua pin  lưu trữ năng lượng mới trong các lĩnh vực như năng lượng hạt nhân, phân phối điện hoặc công nghệ thông tin.

“Lithium là công nghệ được ưa thích cho pin hiệu suất cao. Mang lại tiềm năng công suất, điện cực cao, và khả năng chịu nhiệt rất cao”.

Theo ước tính mới nhất, pin dự kiến sẽ chiếm 95% nhu cầu lithium toàn cầu vào năm 2030.

Giả sử một sự thay đổi mạnh mẽ sang xe điện, nhu cầu toàn cầu về Lithium Carbonate dự kiến sẽ tăng với tốc độ hàng năm là 25% đến năm 2030, từ khoảng 300,000 tấn vào năm 2020 lên 3.6 triệu tấn vào năm 2030, Eijdenberg cho biết, trích dẫn dữ liệu của công ty tư vấn McKinsey & Co.

Sản xuất Lithium đã sẵn sàng cho một đợt nâng cấp lớn và dự kiến sẽ mở rộng 20% hàng năm, theo hãng khai thác MineSpans. Nhưng có thể sẽ là một thách thức để quay trở lại chi phí cung cấp thấp hơn trong tương lai gần,” Giá giao ngay Lithium Oxide ở Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ., đã tăng từ khoảng 10 USD/kg vào tháng 3/2021, lên hơn 80 USD/ kg vào tháng 11/2022.

Điều này sẽ có tác động to lớn đến lithium sử dụng như chất làm đặc xà phòng trong mỡ bôi trơn, theo Axel.

“Thế giới đã tìm kiếm về một loại mỡ bôi trơn không chứa Lithium, với tính khả dụng và giá cả có thể thúc đẩy thị trường lựa chọn thay thế”

Việc chuyển từ Lithium Hydroxit sang một Hydroxit kim loại khác là một nhiệm vụ phức tạp và các nhà pha chế phải xem xét các yêu cầu về hiệu năng của mỡ. Các chuyên gia đã xác định được một số loại chất làm đặc thay thế: Canxi khan (dạng Anhyrous), Canxi Sulfonate và Polyurea.

Canxi khan đã được sử dụng trong một số phân khúc, chẳng hạn như môi trường biển, nông nghiệp, lâm nghiệp, off-road (cơ giới) và cũng phù hợp để sử dụng trong các ứng dụng [chấp nhận được với môi trường] và thực phẩm. Chất làm đặc Canxi được đặc trưng bởi khả năng chống nước cao, lưu biến nhiệt độ thấp tốt, độ ổn định trượt cao và độ bám dính cao vào các bề mặt.

Mỡ bôi trơn được làm bằng chất làm đặc phức Canxi Sulfonate và mỡ Polyurea đều rất phù hợp cho các ứng dụng có tốc độ cao và có thể chịu được tải trọng khắc nghiệt và nhiệt độ cao, đồng thời có khả năng chống nước và bụi bẩn cao.

ESKA Singapore lược dịch,

Theo Boris Kamchev – December 6, 2022, “Axel Predicts Lithium Greases Will Wane”, tạp chí Lubes’N’greases.

Đề xuất giữ thuế bảo vệ môi trường ở mức sàn với xăng, dầu, nhớt trong năm 2023

0

Bộ Tài chính đề xuất Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu theo mức sàn như hiện nay để áp dụng trong năm 2023.

Theo dự thảo Nghị quyết lần 2, Bộ Tài chính đề xuất mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn áp dụng trong năm 2023 như năm 2022 theo mức sàn trong Biểu khung thuế như quy định tại Nghị quyết số 20/2022/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội như sau:

  • Xăng: Giảm từ 4.000 đồng/lít xuống mức sàn 1.000 đồng/lít.
  • Nhiên liệu bay: Giảm từ 3.000 đồng/lít xuống mức sàn 1.000 đồng/lít.
  • Dầu diesel: Giảm từ 2.000 đồng/lít xuống mức sàn 500 đồng/lít.
  • Dầu mazut, dầu nhờn: Giảm từ 2.000 đồng/lít xuống mức sàn 300 đồng/lít.
  • Mỡ nhờn: Giảm từ 2.000 đồng/kg xuống mức sàn 300 đồng/kg.
  • Dầu hỏa: Giảm từ 1.000 đồng/lít xuống mức sàn 300 đồng/lít.

Để đảm bảo tính kịp thời, Bộ Tài chính đề nghị nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2023.

Từ ngày 1-1-2024, mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn tiếp tục thực hiện theo Nghị quyết số 579/2018/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tức với xăng là 4.000 đồng/lít, nhiên liệu bay là 3.000 đồng/lít, dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn là 2.000 đồng/lít, dầu hỏa là 1.000 đồng/lít và mỡ nhờn là 2.000 đồng/kg.

Theo KTSG online

Báo cáo thị trường dầu nhớt Việt nam, năm 2020- Bài 11: Các thương hiệu chính

0

Idemitsu – Định vị hoàn toàn vào phân khúc tầm trung thông qua cung cấp OEMs của Nhật Bản.

Idemitsu hoạt động tại Việt nam thông qua Cty TNHH Dầu nhờn Idemitsu Vietnam, được thành lập năm 2012 tại Hải Phòng.

Năm 2020, Idemitsu ước tính bán ra khoảng 19 kT (ngàn tấn), chiếm thị phần 5%, hầu hết trong phân khúc dầu vận tải.

Idemitsu đặc biệt chú trọng vào các hợp đồng cung cấp dầu nhớt cho các công ty công nghiệp Nhật Bản và các khách hàng lắp ráp ô tô, xe máy  thương hiệu Nhật Bản tại Việt nam. Idemitsu phát triển nhanh chóng tại Việt nam nhờ sự ưa chuộng xe máy của Nhật như Honda và Yamaha của người Việt. Sản lượng cung cấp chỉ riêng cho Honda hàng năm trong khoảng 15 kT. Idemitsu cũng cung cấp OEMs cho Mitsubishi và Hino truck.

Nhà máy pha chế dầu nhớt công suất 35 kT/năm tại Hải Phòng, hoàn thành và bắt đầu sản xuất vào tháng 1/2014. Tập trung sản xuất phân khúc MCO, PCMO và dầu công nghiệp. Năm 2020, ước tính nhà máy đã sản xuất khoảng 24 kT, cung cấp thêm cho một số khách hàng OEMs trong khu vực Đông Nam Á của Nhật Bản. Idemitsu xuất khẩu khoảng 7 kT, 2020, cung cấp cho Honda, Toyata, Mitsubishi và Nissan trong ASEAN.

Thương hiệu Idemitsu được sử dụng trong phân khúc dầu vận tải, trong khi đó thương hiệu Daphne được sử dụng trong phân khúc dầu công nghiệp.

Không giống như nhiều thương hiệu nước ngoài hoạt động tại Việt nam, idemitsu không xây dựng mạng lưới phân phối và tập trung nhiều vào bán hàng trực tiếp B2B.

Idemitsu ít tập trung xây dựng thương hiệu kiểu đầu tư vào các cửa hiệu sửa/rửa xe máy, tập trung vào các điểm dịch vụ có uỷ quyền của các OEMs. Idemitsu tăng nhận diện thương hiệu/hình ảnh trực tiếp đối với người sử dụng thông qua các hình thức quảng bá trong phân khúc ô tô từng địa phương và xe máy.

Trong 5 năm qua, Idemitsu tổ chức các sự kiện chăm sóc xe máy ở các thành phố chính: Hà Nội, Hải Dương, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thanh Hoá… Năm 2020, có hơn 2,500 người tham dự “Ngày chăm sóc xe máy” tại Hà nội.

Idemitsu có 35.1% cổ phần trong Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, Thanh Hoá, song song với 25.1% của PetroVietnam và Kuwait Petroleum Int’l 35.1% và Mitsui Chemicals 4.75%. Nhà máy không có phân xưởng sản xuất dầu gốc, nhưng sự hiện diện của nhà máy đưa tên tuổi Idemitsu được quản bá rộng rãi khi tham gia vào việc cung cấp xăng/dầu diesel cho thị trường Việt nam.

Idemitsu được báo cáo có dự định xây dựng thêm nhà máy pha chế dầu nhớt tại Việt nam, nhưng chưa tiến hành với khoản đầu tư này.

Mekong Lubricants – Thương hiệu nội địa “đang lên”, hiện đang sở hữu 49% cổ phần bởi SK Lubricants.

Mekong là thương hiệu nội địa độc lập, thành lập năm 1996 để cung cấp dầu nhớt cho khu vực miền Tây Nam bộ (Đồng bằng Cửu Long), là một thương hiệu nội địa tầm trung lớn nhất Việt nam.

Tháng 2/2020, SK Lubricants mua 49% cổ phần của Hoá dầu Mekong , giá trị 42.1 triệu USD. Có thể hiểu, SK cung cấp dầu gốc cho Mekong, năm 2020, ít nhất là 8,700 kT. Mekong trở thành Nhà phân phối sản phẩm SK Lubricants tại Việt nam. Ngược lại, Mekong kỳ vọng sẽ pha chế thương hiệu dầu nhớt SK tại Việt nam.

Năm 2020, Mekong bán khoảng 21 kT, chiếm thị phần 5% chủ yếu tập trung trong phân khúc vận tải tầm trung và tầm giá thấp. Mekong là thương hiệu đặc biệt được ưa thích tại các vùng nông thôn với các sản phẩm dầu MCO cho các loại xe máy cũ, và máy móc đường thuỷ cũng như nông nghiệp.

Năm 2013, Mekong khánh thành nhà máy pha chế dầu nhớt công suất 35 kT tại Long An, sau khi nhà máy tại Vĩnh Long bị giải toả di dời. Mekong cũng sản xuất mỡ bôi trơn, công suất 5 kT/năm, ngoài ra, Mekong còn tham gia thị trường dầu gốc bằng cách cung cấp lại cho các nhà máy pha chế nhỏ hơn, hạ tầng kho bãi đặt tại Vũng Tàu.

Mekong tập trung vào phân khúc công nghiệp với sản phẩm chủ đạo như Dầu hoá dẻo cao su, dầu cáp ? cũng như dầu cho động cơ diesel và hàng hải? Đặt target cung cấp cho các công ty/doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu vùng đồng bằng sông Cửu Long.

…còn tiếp

ESKA Singapore, 4/12/2022

Trong phần này, ESKA dịch một cách trung thực nhất theo kiến thức của ESKA trong ngành và KHÔNG chèn quan điểm cá nhân vào bài viết.

EV Tác động nghiêm trọng đối với MWF hơn PCMO

0

Ford Motor Co. với xe bán tải chạy hoàn toàn bằng điện F-150 Lighting tại nhà máy Rouge Electric Vehicle Center ở Dearborn, Michigan. Đây là nhà máy đầu tiên của nhà sản xuất ô tô không có dây chuyền băng tải truyền thống trong sàn và thay vào đó sử dụng các phương tiện dẫn đường tự hành robot để di chuyển xe tải từ trạm này sang trạm khác tại nhà máy.

Ảnh do Ford Motor Co. cung cấp.

Tác động của điện hoá ô tô đối với ngành công nghiệp dầu nhớt được nhìn nhận nghiêm trọng, nhất là đối với các nhà sản xuất dầu nhớt gia công kim loại (MWF) theo một báo cáo mới do Hiệp hội các nhà sản xuất dầu nhớt độc lập (Independent Lubricant Manufacturers Association) nghiên cứu.

Lĩnh vực sản xuất ô tô chiếm 28% dầu gia công kim loại được sử dụng ở Bắc Mỹ, khoảng 51 triệu gallon (tương đương 180 triệu lít). Trong đó, 40% là dầu gia công, làm mát, – 30% dầu forming (định hình kiểu như dập,..), 5% bảo quản và 5% dầu xử lý (như tôi, xử lý bề mặt..).

Sản xuất một xe ô tô động cơ đốt trong (ICE) đòi hỏi dầu gia công cho vòng bi, bạc đạn, trục cam và block máy, cùng vô số bộ phận khác… Một chiếc xe điện chạy bằng pin (BEV) có khoảng một nửa số bộ phận của ICE hoặc xe hybrid. Những bộ phận này cũng ít phức tạp hơn, có nghĩa là giảm nhu cầu về dầu gia công kim loại.

Lượng tiêu thụ tất cả các loại dầu gia công kim loại trên mỗi phương tiện sản xuất dự kiến sẽ giảm 3% đối với xe hybrid và 33% đối với BEV, Gabriel Tarle, nhà phân tích cấp cao tại Kline & Co., công ty thực hiện báo cáo, cho biết. Dầu gia công, làm mát sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất và trong trường hợp đối với sản xuất xe BEV, nhu cầu có thể giảm một nửa. Sự thay đổi nhu cầu về MWF phụ thuộc vào tốc độ chuyển đổi điện hoá. Kline đã mô hình hóa ba kịch bản, với khả năng cao nhất là vào năm 2030, BEV sẽ chiếm 50% doanh số bán xe mới ở Bắc Mỹ.

Nhiều nhà sản xuất ô tô kế thừa ở Hoa Kỳ đang đầu tư hàng tỷ đô la vào BEV như Ford Motor…, tham gia cùng những người mới sản xuất BEV thuần túy như Tesla, Lucid và Rivian. Điều này cũng có thể có nghĩa là nhu cầu đối với dầu động cơ xe ô tô (PCMO) cho “first-fill” cũng giảm.

Kline dự kiến rằng nhu cầu dầu động cơ xe ô tô (PCMO) sẽ giảm 45% vào năm 2040.

ESKA Singapore, lược dịch

Theo Simon Johns – November 30, 2022. tạp chí Lubes’n’Greases

Báo cáo thị trường dầu nhớt Việt nam, năm 2020- Bài 10: Các thương hiệu chính

0

ENEOS- Định vị vào phân khúc “vừa tầm” nhờ hỗ trợ bởi nhà máy pha chế tại Việt nam.

Eneos, trước đây là JX Nippon Oil& Energy, JXNOE, xâm nhập thị trường dầu nhớt Việt nam từ năm 1996. Năm 2010, mở văn phòng đại diện tại Tp.HCM cho đến ngày hôm nay. Tại Nhật Bản, Eneos đối diện với nhu cầu giảm ở thị trường nội địa và đặt mục tiêu đưa Việt nam là thị trường tăng trưởng chủ đạo của tập đoàn với nổ lực phát triển ngành dầu nhớt ở hải ngoại.

Tháng 12/2014, JXNOE ký kết “thoả thuận ghi nhớ” hợp tác chiến lược với Petrolimex, sau đó, tháng 4/2016 JXNOE đã mua 8% cổ phần của Petrolimex (PLX), nâng lên 11% vào giai đoạn 2020-2021 thông qua Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM.

Eneos và Petrolimex cùng nghiên cứu tiền khả thi dự án lọc hoá dầu tại Vịnh Vân Phong (Khánh Hoà) có giá trị 8 tỷ USD. Nhưng trong tổ hợp không đề cập đến nhà máy sản xuất dầu gốc.

Tháng 2/2021, Eneos ký thỏa thuận ghi nhớ (MOU) với Petrolimex mở rộng hợp tác bao gồm phát triển mảng dịch vụ bảo dưỡng phương tiện vận tải tại các trạm xăng dầu của Petrolimex.

Eneos bán khoảng 9 kT (ngàn tấn) dầu nhớt tại Việt nam năm 2020, chiếm thị phần khoảng 2%, tập trung chủ yếu trong phân khúc vận tải.

Tháng 5/2014, JXNOE hoàn thành và vận hành nhà máy pha chế dầu nhớt tại KCN Đình Vũ, Hải Phòng với công suất 40 kT/năm. Dự án đầu tư khoản 40 triệu USD sản xuất dầu nhớt cả phân khúc vận tải và công nghiệp thương hiệu Eneos phục vụ thị trường Việt nam và xuất khẩu. Năng suất sản xuất dầu xe máy, ô tô  với dây chuyền đóng chai lớn nhất thế giới phục vụ cho cả các OEMs Nhật Bản tại Việt nam.

Eneos dẫn đầu là nhà cung cấp dầu nhớt cho các hãng lắp ráp ô tô và xe máy Nhật Bản như Yamaha và Suzuki ở phía Bắc Việt nam. Nhưng Eneos cũng gặp khó khăn khi cạnh tranh với một thương hiệu Nhật Bản khác là Idemitsu để cung cấp cho OEMs Nhật Bản.

Trong phân khúc công nghiệp, Eneos bị cạnh tranh trực tiếp bởi Idemitsu khi xâm nhập các nhà máy sản xuất, cơ khí, thiết bị xây dựng..đầu tư từ Nhật Bản tại Việt nam.

Tập đoàn nổ lực quảng bá thương hiệu Eneos thông qua các hoạt động đầu tư nhận biết thương hiệu tại các điểm bán hàng trực tiếp như các hiệu rửa xe, sửa xe ..cũng như quảng cáo trên phương hiện đại chúng: ti vi và các hãng taxi…

Eneos cũng có nỗ lực tài trợ các hoạt động thể thao tại Việt nam. Năm 2021, Eneos là nhà tài trợ cho CLB bóng đá Sài Gòn. (Xui là năm 2022, Saigon FC rớt hạng khỏi V League)

GS Oil- Tìm cách tăng thị phần trong phân khúc MCO và PCMO

GS Oil là thương hiệu được phát triển bởi liên doanh GS Caltex tại Hàn Quốc, hiện diện tại Việt nam từ năm 2005 thông qua thương nhân nội địa nhập khẩu lấy tên là GS Lubricants Viet Nam, đặt văn phòng tại tỉnh Đồng Nai. Công ty cũng có Vp tại HCM và Cần Thơ.

Năm 2020, ước tính GS Viet nam bán ra khoảng 8 kT, chiếm 2% thị phần. GS Viet Nam không có nhà máy tại Việt nam nên nhập khẩu 100% thành phẩm dầu nhớt và mỡ bôi trơn từ nhà máy GS Caltex’s tại Incheon, Hàn Quốc.

GS tập trung mạnh và các sản phẩm HDEO và thuỷ lực dưới thương hiệu Kixx và GS, trong đó nhãn hiệu Kixx HD, GS Hydro và GS Grease được nhiều người biết đến.

Hiện diện trong phân khúc MCO và PCMO, bị cạnh tranh mạnh, nên vẫn còn tương đối hạn chế nên GS mua lại 11.56% cổ phần của chuỗi rửa xe Vietwash, một nhánh của VI Automotive Service, có trị giá 39 tỷ Đồng. Đây là công ty “start up” với chuỗi rửa xe, thành lập năm 2014, có 51 điểm tại HCM và Đà Nẵng. VietWash và GS dự định tăng thêm khoảng 100 điểm trong vài năm tới.

Thị trường trọng điểm của GS Lubricants Vietnam tập trung ở Đồng Nai, và các vùng có các KCN với vốn đầu tư FDI nhiều từ Hàn Quốc như Bình Dương, Long An, BR-VT và Tp. HCM. GS cũng hiện diện tại miền trung và nam Việt nam.

Để tăng sự nhận diện thương hiệu, năm 2019 GS kết hợp chương trình với Grab bằng cách giảm 40% cho tài xế Grab tại Tp Hà Nội. Chương trình cũng thực hiện lại vào tháng 10/2020 tại Tp.HCM và Đà Nẵng.

GS cũng đặc biệt quan tâm đến các “khuyến nghị – approve” từ BMW, MB, VOLVO, GM, Hyundai và các hãng ô tô khác để tăng cường doanh số PCMO tại Việt nam.

Trong phân khúc vận tải thương mại, GS chú trọng bán trực tiếp cũng như làm việc với các nhà phân phối địa phương để xâm nhập phân khúc.

…còn tiếp

ESKA Singapore, 28/11/2022

Trong phần này, ESKA dịch một cách trung thực nhất theo kiến thức của ESKA trong ngành và KHÔNG chèn quan điểm cá nhân vào bài viết.

Mô tô phân khối lớn hút khách

0

Nhu cầu “chơi xe” mô tô phân khối lớn ngày càng sôi động khi nhiều hãng xe tiếp tục cung ứng nhiều mẫu mã giá mềm, thu hút khách hàng đa dạng đủ độ tuổi. 

Khảo sát trên thị trường mô tô phân khối lớn tại TP.HCM, các thương hiệu như Triumph (Anh), Harley – Davidson (Mỹ), Ducati (Ý), KTM (Áo), Husqvarna (Thụy Điển)… cũng đã hiện diện tại Việt Nam.

Các mẫu xe trong giai đoạn tháng 11-2022 đang có giá trung bình từ 78 triệu đồng/chiếc như Kawasaki SE 175 cc; Z1000 giá 500 triệu đồng/chiếc. 

Thậm chí có những mẫu có giá vài trăm triệu đồng đến tiền tỉ. Đơn cử mẫu như BMW Motorrad (Đức) S1000RR giá từ 639 triệu đồng/chiếc; Kawasaki ZX 10R, ZH2 giá 700 triệu đồng/chiếc…

Đại diện một nhà phân phối mô tô cho biết xe phân khối lớn rất đa dạng về mẫu mã, dung tích và phân khúc giá nên thu hút khách hàng từ thanh niên đến người lớn tuổi. 

Các hãng xe kỳ vọng thị trường Việt Nam sôi động trong thời gian tới khi trào lưu “chơi” mô tô ngày càng nở rộ, đặc biệt là trào lưu đi phượt.

Theo Tuổi trẻ Online.

Báo cáo thị trường Dầu nhớt Việt nam, năm 2020 – Bài 9: Các thương hiệu chính.

0

BP (Castrol BP Petco) – Người dẫn đầu thị trường, đang bảo vệ vị trí khi đối mặt với sự cạnh tranh mãnh liệt. (tiếp theo)

HDEOs là phân khúc quan trọng trong các sản phẩm dầu nhớt của Castrol BP Petco với sản lượng ước tính khoảng 40% doanh số năm 2020.

Castrol cung cấp ổn định 60% dầu nhớt cho dòng xe vận tải thương mại của ô tô Trường Hải, là hãng lắp ráp xe ô tô và tải lớn nhất Việt Nam.

Castrol CRB Turbomax, nhãn hiệu dầu vận tải thông dụng, dẫn đầu tại Việt nam

Để ngăn sự giảm sút thị phần và thúc đẩy lợi nhuận, Castrol tập trung quảng bá các sản phẩm cao cấp cho phân khúc MCO như Castrol Power 1 Ultimate 10W-30 4T/10W-30 AT và 10W-50 cho mô tô.

Castrol cung cấp cho VinFast các dòng PCMO cao cấp cho nhà máy sản xuất tại Hải Phòng, như là khẳng định tên tuổi nhãn hiệu dầu nhớt hàng đầu được sử dụng cho xe hàng đầu của Việt nam. Nhưng Castrol kỳ vọng vào chuỗi dịch vụ khắp cả nước của VinFast trong tương lai, mặc dù năm 2020 sản lượng xe bán ra của VinFast còn rất ít.

Castrol BP Petco phân phối MCO và HDEO thông qua 80-90 nhà phân phối và hơn 60,000 điểm bán lẻ chính thức, song song đó, sản phẩm của Castrol hiện diện hầu như khắp các điểm rửa xe/sửa xe trên toàn quốc.

Castrol tăng cường sự nhận diện hình ảnh thương hiệu thông qua các điểm Bike Point khắp cả nước thu hút người sử dụng sản phẩm một cách thường xuyên. BP-Castrol tiên phong trong việc đầu tư các cửa hiệu sửa xe/rửa xe những ngày đầu tiên “mở cửa” thị trường dầu nhớt Việt nam. Nhờ đó, Castrol thống trị trong phân khúc MCO tại Việt nam.

Chevron (Caltex)- Vị trí tầm trung trong thị trường, cũng cố bằng cách nâng cấp nhà máy pha chế.

Chevron là nhãn hiệu lâu đời tại Việt nam, hiện diện tại miền nam Việt nam từ năm 1924, dưới thương hiệu Caltex. Sau thời gian gián đoạn từ sau ngày đất nước bị cấm vận và “đóng cửa”, Chevron tham gia thị trường dầu nhớt trở lại từ năm 1998, cũng bắt đầu bằng thương hiệu Caltex.

Caltex được biết nhiều trong phân khúc công nghiệp và cả dầu vận tải trước đây. Năm 2020, Chevron bán được 23 kT (ngàn tấn), chiếm khoảng 5% thị phần. Chevron đầu tư nâng cấp nhà máy lên gấp 3 lần công suất năm 2017 với 45 kt/năm, tham vọng cung cấp nội địa và xuất khẩu sản phẩm đến một số nước trong khu vực.

Chevron cũng pha chế gia công cho nhãn hiệu PV OIL để đáp ứng thị trường miền Bắc.

Chevron có truyền thống “mạnh” phân phối ở phía Bắc, đặc biệt khu vực Hải Phòng và Hà nội.

Dầu vận tải Chevron tập trung trong mảng HDEO và MCO với sản lượng bán ra chiếm 90% doanh số. Sản phẩm thông dụng nhất trong HDEO là Delo 400, trong MCO với nhãn hiệu Havoline Super và Supermatic.

Chevron báo cáo có 60 nhà phân phối trên khắp Việt nam và 12,000 điểm bán lẻ có đầu tư thương hiệu, tập trung định vị cả tầm trung lẫn cao cấp.

Chevron, Caltex trước đây hoạt động mạnh trong lĩnh vực công nghiệp, kiểu bán hàng trực tiếp từ Công ty, ngoài ra Caltex cũng khá nổi tiếng trong phân khúc dầu hàng hải với nhãn hiệu Delo và Taro

…còn tiếp

ESKA Singapore, 13/11/2022

Trong phần này, ESKA dịch một cách trung thực nhất theo kiến thức của ESKA trong ngành và KHÔNG chèn quan điểm cá nhân vào bài viết.